Trang chủ > Đọc sách > Những trang sách xưa

Những trang sách xưa

Nhân mùa Vu Lan, mời các bác cùng đọc lại một số trích đoạn trong Luân Lý Giáo Khoa Thư- lớp sơ đẳng.

Bổn phận phải đi học
Sự học rất có ích lợi. Có học thì mới biết đọc, biết viết, biết tính toán, biết suy nghĩ phải trái. Có học thì trí tuệ mới mở mang, phẩm giá mới cao lên được. Những người không có học, thì dẫu làm nên chức phận gì, có nhiều của đến đâu, cũng vẫn là người thô lỗ chưa ra người có tư cách hoàn toàn.

Công bình
Không phạm đến tính mệnh, của cải, danh giá, sự tự do và sự tín ngưỡng của người ta, tức là công bình.

Đối với người ta, đã có bụng công bình, thì ai cũng như ai. Bất cứ là người đồng tông hay dị chủng, cũng không có cái gì là phân biệt, mà cũng không dám làm cho chuyển được cái bụng ngay lành của mình. Vậy trước khi làm việc gì, ta phải xét xem, việc ấy có hại đến ai không. Bất cứ việc gì, ta cũng phải lấy sự công bình làm cốt.

Trọng cái tính mệnh của người ta
Trọng cái tính mệnh của người ta, là đừng có làm điều gì phạm đến thân thể và quyền tự do của người ta. Người ta ở đời, không có gì trọng bằng cái tính mệnh, hễ phạm đến, là một tội đại ác.

Không những là giết người mới có tội, cậy quyền cậy thế mà hà hiếp người ta, làm mất cái quyền tự do của người ta, cũng là một điều trái với lẽ công bình, người có lương tâm không ai làm.

Lòng nhân ái
Các anh đã hiểu rõ những lẽ công bằng, nghĩa là phải trọng tính mệnh, của cải, danh giá của người ta. Nhưng đó chỉ là giữ không làm điều ác mà thôi. Như thế vẫn chưa đủ bổn phận làm người. Phải có lòng nhân ái nữa mới được.

Nhân ái là lòng từ thiện, thương người đói khát, giúp người hoạn nạn. Có lòng nhân ái, thì mới làm những việc như bố thí, cứu giúp kẻ nghèo khổ, mới biết thân yêu mọi người và quên mình mà làm điều thiện.

Việc bố thí cần phải tự nhiên, không cầu kỳ, không khoe khoang, mà có phần thiệt thòi cho mình thì mới quý.

Nghĩa đồng bào
Nghĩa đồng bào khiến ta phải thương yêu mọi người như là thương yêu anh em ruột. Bao giờ ta cũng sẵn lòng giúp đỡ mọi người, để người ta làm trọn cái nghĩa vụ ở đời. Ta phải dạy bảo những người ngu dốt, khuyên người làm điều lành, răn người làm điều ác. Ta nên che chở cho những người bị điều oan ức và bênh vực những kẻ hèn yếu. Ta phải ăn ở thế nào cho đứa con mồ côi có thể coi ta như cha, người đàn bà goá coi ta như ân nhân. Ta làm mắt cho kẻ mù, làm chân cho kẻ què, làm tai cho kẻ điếc.

Lòng thí xả
Lẽ công bằng chỉ bắt mình không được phạm đến tính mệnh người ta, chớ lòng nhân ái thì có thể khiến mình phải bỏ thân mà cứu người. Không nói gì những người vì tình thân ái, hoặc vì tình cốt nhục, như cha mẹ nuôi con, hay là anh em, chị em nuôi nhau, ta thường trông thấy nhiều kẻ chỉ vì chút lòng nhân ái mà chịu xả thân để cứu người: nào những kẻ đầy tớ chịu cực khổ mà theo thầy trong lúc gian nan, những bậc trung thần nghĩa sĩ chịu khó bỏ mình mà cứu chúa; nào những kẻ nhảy liều xuống nước mà vớt người chết đuối, hoặc xông vào đám lửa mà cứu người bị cháy. Xem như thế thì lòng nhân ái đáng quý biết là bao nhiêu!

Đến những việc hằng ngày ta vẫn làm gì, nếu không có chút lòng thí xả, thì sao cho xứng đáng với nghĩa vụ mình, như ông thầy đi dạy học, không quản công lao khó nhọc; người làm thầy thuốc đi chữa những bệnh truyền nhiễm, không sợ lây; người làm lính đi đánh giặc, liều sống chết ở chỗ chiến trường để giữ lấy nước nhà, những người ấy đều vì lòng nhân ái mà ra sức kàm việc nghĩa vụ.

Ta nên thương loài vật
Những loài vật đã giúp việc cho ta mà ta phải thương xót, là cái nghĩa vụ của ta. Nhưng đối với các loài cầm thú khác, ta cũng nên có lònh nhân ái mới phải đạo làm người. Cầm thú tuy là giống không biết thiện ác và phải trái như người, nhưng nó cũng biết đau, biết khổ như mình. Vì ta cần dùng làm đồ ăn, cho nên mới phải làm thịt con gà, con chim, hoặc con dê, con lợn. Nhưng khi làm thịt, phải giết cho nó chết ngay, đừng làm nó đau đớn, khổ sở. Ta thấy có người làm thịt con chim, để sống mà vặt lông, hay làm thịt lợn, thì trói buộc cả ngày, thật là dã man lắm.

(Luân Lý Giáo Khoa Thư- lớp sơ đẳng- Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đình Phúc, Đỗ Thận. Tái bản theo bản in từ năm 1938-1948 của Nha Học chính Đông Pháp. Nxb Trẻ, 2007)

Chuyên mục:Đọc sách Thẻ:
  1. 08/08/2011 lúc 16:17

    Hihihi, gặp cô giáo rồi !
    À, Tem cái đã !

  2. Dân cổng chốt
    08/08/2011 lúc 20:00

    Hay quá! Sách thời Pháp thuộc thường viết rất rõ ràng ,dễ hiểu.Không văn hoa ,kiểu cách,hùng hồn mà dễ thấm.
    Ở cái mục cuối cùng “ta nên thương loài vật”- hình như lâu nay ta không dạy rõ như thế.Bên châu Âu họ có thành luật không thì không rõ,nhưng ít nhất cũng thành quy tắc( hướng dẫn sinh hoạt XH) ;kèm dân trí họ rất cao nên họ làm việc này tốt lắm.(họ giết thịt bò,lợn,gà vịt…cũng như bài học này đã khuyên).
    Có đi ra mới biết người mình vẫn man rợ (với loài vật),kém hơn hẳn so với dân châu Âu .Đã thế không ít bà con mình bên ấylại cười Tây “ngu” ,Tây “vẽ chuyện”…nữa chứ.

  3. 08/08/2011 lúc 21:54

    Luôn vui khỏe em nhé .

  4. Nguyễn thị Nha Trang
    08/08/2011 lúc 23:45

    Đọc entry , mà lòng cảm thấy bùi ngùi hòa lẫn niềm luyến tiếc cho 1 nền giáo dục nhân văn tốt đẹp, đượm đầy tính giáo dục hoàn thiện nhân cách 1 con người Chân Thiện Mỹ ….đã quá vãng cáo chung , nhường chỗ cho 1 nền giáo dục xhcn chấp vá , què quặt , èo uột ….đầy gian dối , lươn lẹo …!

    Trẻ em như tờ giấy trắng , những bài vỡ lòng học thuộc lòng ngắn gọn , giảng dạy về luân lý , đạo đức Chân Thiện Mỹ làm người trong ” Luân Lý Giáo Khoa Thư ” như : Tình gia tộc , thờ phụng tổ tiên , yêu mến cha mẹ , kính trọng cha mẹ , vâng lời cha mẹ , biết ơn cha mẹ …, phải tôn kính thầy , phải yêu mến thầy , phải vâng lời thầy , phải biết ơn thầy …, bênh vực kẻ yếu , giúp đỡ lẫn nhau ….v..v…..sẽ là hành trang đạo đức cho 1 công dân khi vào đời , biết cách xử sự ở đời , phân biệt được 1 cách rõ ràng điều thiện và điều ác , thế nào là đạo đức và sống sao cho phải đạo làm người …

    Bùi ngùi , luyến tiếc… là thế , nhưng biết làm sao được đây ! khi cả bầu trời đang bị che phủ bởi đám mây đen u ám dày đặc….

    • Nguyễn thị Nha Trang
      09/08/2011 lúc 22:35

      Phay Van & Hà Linh mến ,

      Đã làm cha mẹ , chắc rằng chúng ta đã chiêm nghiệm , cũng như đã thấy rõ chân giá trị của những cuốn sách dạy và học làm người đầy tính nhân văn này ….
      Mong rằng các bậc phụ huynh – nhất là các gia đinh trẻ – , trong tủ sách gia đình của mình , cần nên có những cuốn sách loại này , để các cháu bé có thể vỡ lòng , tiếp cận cái nền tảng cơ bản của đạo đức làm người chân chính …ngay từ chính cái nôi giáo dục của từng gia đình mình…
      Mong lắm thay…!

      • 10/08/2011 lúc 09:21

        Chị Nha Trang kính mến,

        Em đọc comment số 38 bên bài ” Trẻ em không được ăn thịt chó ” rồi ạ.
        Nói gì nữa thì lại có thể trở nên khách sáo( cho dù em chẳng bao giờ nói lời khách sáo mà em nói cái em nghĩ thôi) nhưng em mong được chị ” kèm cặp” thêm nhé chị!
        Em nghĩ trẻ con Việt Nam ngày nay nói chung chịu nhiều thiệt thòi lắm vì không thực sự đước học trong môi trường giáo dục nhân văn ở nhà trường..qua cánh cổng nhà trường thì lại đối mặt với một xã hội nhiều điều trái ngược với trang sách các cháu học..
        Em nghĩ một thế hệ được lái đi trong rối rắm và âm u..Em có bi quan quá không? cũng có thể phần nào đó…nhưng quả thật em thấy thương các bé lắm..
        Hôm rồi em đi dự giờ cuối học kì 1 của con gái em, nhìn thấy những thông điệp đơn giản về tình bạn, đời sống, tình người của các em viết ra khi chơi trò chơi từ việc đánh răng…em có chụp lại hình, hôm nào em cho lên blog để chị Nha Trang và mọi người xem, TBGC giáo dục trẻ em ra sao.
        Ngày bình an nhé chị Nha Trang!

      • Nguyễn thị Nha Trang
        11/08/2011 lúc 00:14

        Hà Linh yêu mến ,

        Chị rất vui và mừng , thậm chí cảm thấy hạnh phúc khi hàng đêm vào nhà 2 em đọc bài , thân tình trò chuyện cũng như trao đổi … Chị cảm nhận được cái không khí thật ấm cúng , thân mật …trong không gian blog nhà của 2 em …Vì vậy , Chị em mình cứ thân tình chia sẻ những gì mình có thể sẻ chia được cho nhau là điều quý , phải không Hà Linh em !
        Chị nghĩ , với thế hệ lứa tuổi chị mà còn được trò chuyện , trao đổi …một cách đồng cảm thân tình với 2 em thì thật là một điều thú vị rồi , vì vậy từ ” kèm cặp ” chị em mình cho nó ” ngồi qua một bên ” đi nha em !

        Hà Linh em , qua comment chị thấy em biểu lộ tư duy độc lập chín chắn , và nhận xét trung thực – thoát ra khỏi những gì mà em ” bị nhồi nhét ” dưới mái trường xhcn – , đây là tính cách chị rất quý ở em !

        Hãy luôn vui và sống thật với lòng mình như thế em nhé …

      • 11/08/2011 lúc 10:53

        Chị Nha Trang ơi,

        Em hoàn toàn tiếp thu ý kiến của chị!
        Em thích trao đổi vui vẻ và thân tình chứ bản tính em cũng không khách sáo được chị nờ!
        Em thì từ khi đi học phổ thông đã rất rạch ròi tức là em không nể phục những hành động người lớn khi họ nói một đằng và làm một nẻo..em cứ thấy cái gì đúng và hay thì em tin thôi chị ơi.
        Cũng may mà em còn được hưởng chút ít nền giáo dục trong sáng khi các thầy cô đa phần còn sống trên cơ sở đạo đức của người giáo viên.
        Hè rồi em về VN lại đến thăm thầy dạy Văn hồi cấp 3, thầy trò lại chuyện trò tâm tình như xưa, thầy nói là sẽ về hưu từ cuối năm ngoái, khép lại một đời dạy học thăng trầm..Em có nói với thầy:” Em vốn dĩ học Văn nhiều hơn tất cả các môn học khác, và thầy là người chăm chút cho em rất nhiều những năm cuối, em nghĩ chính nhờ những bài học Văn học giúp em cảm nhận về đời sống, con người tốt hơn, nhân văn hơn… trong mọi hoàn cảnh em đều nhìn thấy điều gì đó tốt đẹp để bước tiếp..em nghĩ công ơn thầy to lớn lắm..”- 2 thầy trò đều rưng rưng chị à.
        Lại nhớ thầy…
        Chúc chị ngày vui, bình yên!

      • Nguyễn thị Nha Trang
        11/08/2011 lúc 21:56

        Hà Linh yêu mến , ” Em hoàn toàn tiếp thu ý kiến của chị ! ”

        Chị cứ tủm tỉm cười vì câu này của em đấy….! Em biết vì sao chị tủm tỉm cười không …?
        Nếu có thời gian em thử vào đọc bài này nha , thú vị lắm Hà Linh ! nhất là với 1 người đam mê chữ nghĩa và thích viết như em …

        Vào google gõ nha em : ” Ngôn ngữ ngậm ngùi , của Lê Hữu ”

        Hy vọng và luôn tin tưởng em gái đáng yêu luôn …hoàn thiện , hòa nhập và thăng hoa với từng ” con chữ ” của mình , giống như từ ” chung chiêng ” mà suốt đời chị không bao giờ quên được cái cảm giác ” chung chiêng ” khi bắt gặp em sử dụng ” xuất thần ” – đối với riêng chị – !

        Luôn vui nha em gái ,

      • Nguyễn thị Nha Trang
        12/08/2011 lúc 22:08

        Phay Van mến ,

        Trước 1975 em còn nhỏ mà cũng …biết vụ ” ồn ào ” của Nguiễn Ngu Í à ? Em thuộc dạng đặc biệt thật đấy !
        Ừ , vụ này hồi đó thế hệ chị ai cũng biết , đâu khoảng thập niên 60 thì phải ! Ông cũng có cái lý của ông , nhưng các nhà chuyên môn hồi ấy đánh giá rằng : ông không có nền tảng căn bản về Ngữ Âm Học , nên những ” cải cách chính tả ” của ông là lập dị , quái gỡ…vì vậy rất gây khó chịu , và kết luận cuối cùng là …chẳng ai thèm theo cái cải cách chính tả lập dị , quái gỡ của ông đề xướng , ngoại trừ…chính ông !
        ( chính xác thì có vài người , như : học giả Nguyễn Hiến Lê , học giả Trúc Thiên …có ủng hộ phần nào trong việc thay chữ cái ” y ” bằng ” i ” … ! Bằng chứng là trong các ấn phẩm của chính học giả Nguyễn Hiến Lê tự xuất bản có dấu hiệu của sự ủng hộ này , ví dụ : Mĩ thuật ( Mỹ thuật ) , Cầu kì ( Cầu kỳ ) , Triết lí ( Triết lý )…….)

        Nếu chị nhớ không lầm thì Nguiễn Ngu Í , tên cha mẹ đặt là Nguyễn Hữu Ngư ! vào thập niên 60 ông có đệ đơn lên tòa án Saigon để đổi tên mình là Nguiễn Ngu Í , cho phù hợp với cái ” cải cách chính tả ” mà ông đề xướng …., ngoài ra ông còn lấy các bút hiệu khác cũng với chủ ý này , như : Lưu Nguiễn , Ngê Bá Lí , Phạm Hoàn Mĩ , Ngư Fi Lô , Tân Fong Hiệp , Trịnh Nguiên….
        Chị cũng còn …nhơ nhớ các ” cải cách chính tả ” của ông , hình như là :

        * thay ” y ” bằng ” i ” : Ý kiến = Í kiến , Tình yêu = Tình iêu , Hy vọng = Hi vọng…..

        * Trong vần ” ngh ” bỏ chữ ” h ” : Nghề = ngề , Nghẹn = ngẹn , Nghĩa = ngĩa ….

        * thay ” ph ” bằng ” f ” : Phi cơ = Fi cơ , Phong cảnh = Fong cảnh……

        Tuy nhiên , như chị đã nói ở trên : các nhà chuyên môn cho rằng ông không có nền tảng cơ bản về Ngữ Âm Học , nên những ” ồn ào cải cách chính tả ” của ông như chỉ là ” hòn đá nhỏ ném xuống nước tạo thành những quầng nước lan tỏa chút ít rồi từ từ …mất dạng vậy ! “

      • 13/08/2011 lúc 12:36

        Chị Nha Trang:
        Hồi xưa em đọc cả Phổ Thông và Bách Khoa nữa chị ạ, dù không tiếp thu được trọn vẹn như người lớn, nhưng cũng có biết chút ít chị ạ.

        em copy tặng chị bài viết của bs. Đỗ Hồng Ngọc này:

        Cậu Tôi, Ông Ngu Í Nguiễn Hữu Ngư
        Tác Giả: Đỗ Hồng Ngọc
        Bây giờ, mỗi lần nhớ tới cậu tôi thì tôi thường tự hỏi hồi bằng tuổi cậu, tôi có làm được điều gì đó cho ai như cậu đã làm cho tôi không và tự nhiên tôi thấy lòng mình rộng mở, thanh thản, muốn giúp đỡ, chia sẻ. Cho đến năm 12 tuổi, tôi mới được biết cậu, còn trong ký ức mơ hồ của tôi hồi bốn, năm tuổi gì đó, tôi chỉ còn nhớ ông bà Giáo và dì Nga, là cha mẹ là em của cậu. Ông bà Giáo rất hiền, dì Nga cũng hiền. Ông bà và dì Nga sống bằng nghề chằm đệm buồm. Tôi thường có dịp đến chơi, coi mọi người chằm lá. Khoảng chín, mười tuổi, tôi về sống ở Phong Điền, Hiệp Nghĩa, lại gặp ông bà Giáo ở gần nhà cậu Năm Ý tôi, trên miếng đất ông cố tôi để lại. Bà Giáo là cô ruột của mẹ tôi, còn ông thì tôi chỉ nghe gọi là ông giáo Hoàn. Khi lớn lên thì tôi biết dì Nga đã mất, cậu Ngư thì nghe nói rất ít, và trong nhà khi nhắc tới cậu, người ta hay gọi “Ngư khùng, Ngư điên”. Mẹ tôi, cậu Năm lớn (Bánh), cậu Năm nhỏ (Ý), cậu Năm Chi đều gọi là “thằng Ngư khùng” bằng giọng trìu mến, thương yêu, không ghét bỏ mà có phần quý trọng, nể nang. Tôi lấy làm lạ. Những người nhỏ tuổi hơn như cậu Hội, thì gọi “anh Ngư khùng” bằng một giọng kính nể hơn. Không phải mọi người kính trọng vì ông bà Giáo hiền lành, ông vừa là thầy giáo vừa là thầy thuốc được mọi người trong xóm làng thương mến, mà nể trọng “Ngư khùng” vì cho rằng cậu Ngư học giỏi quá, học giỏi đến hoá khùng, hoá điên. Mà thật, vùng tôi hồi đó không ai học được lên cao như cậu. Tới “Primaire” đã hiếm chớ đừng nói đến “Brevet” trường Tây rồi vào học cao đẳng sư phạm như cậu. Nghe nói hình như vùng quê ngoại tôi có hai ngọn núi án ở phía bắc (Tà Cú) và phía Đông (Tà Đặng) nên ai học giỏi quá, học cao quá thế nào cũng xảy ra chuyện không hay. Từ đó, Ngư khùng, Ngư điên vì học giỏi như một huyền thoại bao quanh tôi. Tôi vừa thích vừa sợ, vừa lo lo. Thế rồi đến năm mười hai tuổi, tôi mới được gặp cậu bằng xương bằng thịt lần đầu tiên.
        Ba tôi mất, mẹ tôi rời xóm tản cư trong rừng Bàu Lời, dẫn bốn anh em tôi về thị xã Phan Thiết tá túc ở nhà cô Hai tôi, ngụ trong chùa Hải Nam. Cô Hai và các chị tôi sống bằng nghề chằm lá buông, tôi phụ giúp phơi lá. Cô tôi rất tốt mà cũng rất nghiêm. Cô tôi cũng lại gọi “cậu Ngư Khùng” với cái giọng nể nang. Các anh chị cũng nhắc đến cậu bằng sự mến phục. Mọi người đếu khen cậu hiền lành, dễ thương, chỉ khi điên mới kỳ cục, nhưng điên chỉ vì học quá giỏi mà thôi. Thế rồi có lần cậu từ Sài Gòn về Phan Thiết, ở nhà dì ba Lem. Cậu đến thăm mẹ con tôi và bàn với mẹ tôi cho tôi đi học. Trời ơi, đi học, sướng quá, nhưng phải cẩn thận, học vừa thôi chớ học giỏi quá hoá điên như cậu thì nguy, tôi tự nhủ. Tôi thấy cậu ốm nhom, tóc hớt ngắn, quần rộng thùng thình, sơ-mi sạch sẽ nhưng nhàu nhè, chỉ có đôi mắt là sáng rực sau cặp kiếng cận tròn, gọng đồi mồi. Bộ ria mép che bớt cái miệng với hàm răng hơi hô, nhưng nhờ hay cười nên cũng có duyên, mũi hơi quặp, chịu đựng cặp mắt kiếng khá nặng, tay thì ôm một chồng sách báo, đi nghiêng nghiêng tất tả. Lần về đó có cả mợ tôi. Mợ tròn trịa, da trắng, tóc quăn, nhanh nhẹn, vui vẻ, hoạt bát. Hôm đó tôi diện bộ đồ “pyjama” do anh Hai con cô tôi may cho, đến nhà dì Ba Lem thăm cậu mợ. Sau này tôi có viết lại đoạn hồi ký ấy trong một cuốn vở học trò, với cái tựa là “Cậu tôi”, kể lại “Buổi mai hôm ấy, một buổi mai… cậu nắm lấy tay tôi, dẫn đi trên con đường…” đến trường học. Tiếc là cậu đã làm thất lạc. Bây giờ tôi không viết lại được nữa. Tôi nhớ cậu dẫn tôi đi mua sách vở chuẩn bị vào trường ở nhà sách Vui Vui bên bờ sông Cà Ty gần cầu Phan Thiết. Tôi bẽn lẽn, hồi hộp, sung sướng không tả. Tôi vừa đi vừa ngó chừng cậu. Cái huyền thoại học giỏi hoá điên của cậu làm tôi ngờ ngợ, lo lo. Nhưng tôi nghĩ là tôi cũng phải ráng học giỏi. Thà học giỏi hoá điên còn hơn học dở. Trước đây, tôi học trong rừng, vùng kháng chiến quê mẹ tôi, không biết sức học thực của mình ra sao. Mười hai tuổi, biết đọc, biết viết, làm toán khá, còn chưa biết một chữ “le, la” trong tiếng Pháp, mà hồi đó, học trò tiểu học đã học tiếng Pháp rồi. Tôi hoảng lắm. Cậu thì tỉnh queo, nắm tay tôi kéo vào tiệm sách Vui Vui mua cho nào vở, nào tập, nào viết chì, viết mực, cục gôm, không thiếu một thứ gì. Cậu còn mua cho một cây viết chì màu hai đầu xanh đỏ mà tôi rất khoái. Mấy cuốn sách Pháp vỡ lòng, sách Việt, sách toán đủ cả. Cậu thiệt là rành nghề học, tôi nghĩ. Cậu vào tiệm sách mua một lèo không đắn đo suy nghĩ gì cả. Người ta nói đúng, cậu có nghề đi học nên cậu rành quá.
        Cậu dẫn tôi đến nhà người bạn cậu, cô Tiểu Sính, vợ thầy Lâm Tô Bông. Thì ra cô là Hiệu trưởng trường tiểu học mà cậu định gởi tôi vào học. Cô cũng óm nhom, cũng mang kiếng cận trời ạ. Hoá ra người nào học giỏi cũng mang kiếng cận, phải ốm nhom và chắc cũng khùng khùng, điên điên cả sao? Nhưng cô không có vẻ gì khùng mà lại rất vui vẻ, tử tế. Tôi nghe hai người bàn bạc gì đó với nhau một lúc. Sau đó cô Tiểu Sính dặn dò tôi mấy điều và hẹn ngày cho tôi vào lớp. Lớp ba! Mà người ta đã học cả tháng trước rồi! Tôi lo sốt vó, không biết có học nổi không. Thế nhưng sau đó mấy ngày, tôi được thầy giáo báo với cô Hiệu trưởng cho lên lớp nhì và vài tháng sau đó cho lên lớp nhất luôn (lớp Năm bây giờ). Lần đó cậu Ngư cho tôi một số sách báo để đọc chơi, Có những cuốn sách hình thật đẹp, vừa có thơ, vừa có họa như cuốn Con ve và con kiến của Nguyễn Văn Vĩnh. Tôi muốn mình cũng vẽ được hình, làm được thơ như vậy. Tôi được học bổng toàn phần, nghĩa là được miễn đóng học phí. Tôi chắc là nhờ cậu nói giúp với cô Hiệu trưởng hoàn cảnh gia đình tôi nên mới được như vậy. Nhưng điều kiện nhà trường cho tôi biết là hàng tháng phải học giỏi, phải đứng từ hạng năm trở lên mới tiếp tục lãnh học bổng. Tôi ráng học, thường đứng nhất hay nhì mà thôi. Cuối năm được lãnh thưởng hạng nhất toàn trường, phải kêu xe xích lô chở về chùa. Cô tôi, mẹ tôi và các chị mừng lắm, khuyến khích tôi học. Tôi không nhớ lúc nào cậu Ngư lại về Phan Thiết lần nữa. Lần này cậu đến trường tìm tôi. Trường Bạch Vân bây giờ đã dời về chùa Bà. Tôi không biết sao mà mình ở cũng chùa mà học cũng chùa. Nhưng chùa Bà Đức Sanh Hội là nơi im ả, sân rộng, cây cao bóng mát thật lý tưởng, lớp học cách điện thờ có một vách ngăn. Lần đó thấy tôi học giỏi, cậu khen ngợi và cởi chiếc đồng hồ đeo tay, cho tôi. Lần đầu tiên tôi có cái đồng hồ đeo tay. Tôi khoái lắm, thấy không thua kém bạn bè nữa. Bây giờ đi đâu, có dịp tôi thường cho mấy nhóc nhỏ trạc tuổi tôi hồi đó thứ này, thứ khác… là tôi nghĩ đến cậu tôi, nhớ đến cậu. Từ đó, tôi thường thư từ với cậu. Mỗi lần được thư tôi, cậu đều trả lời. Thư cậu viết trên giấy pelure màu xanh, hồng, có khi là giấy học trò thi, cậu tiết kiệm để dùng. Thỉnh thoảng cậu cho tôi sách, báo. Tôi mê lắm. Thế rồi gia đình tôi đột ngột theo cô Hai tôi dời về thị xã La Gì, Bình Tuy, quê cũ của họ hàng phía nội tôi. Lúc đó tôi đang học đệ thất trường Phan Bội Châu, Phan Thiết, sắp lên đệ lục, mà phải bỏ trường bỏ lớp thì thật là nản!
        Hai năm sau Bình Tuy mới có lớp đệ thất đầu tiên của một trường đạo. Tôi xin mẹ cho tôi học lại. Mẹ tôi đồng ý. Cũng lạ, tôi hết học chùa bây giờ đến học nhà thờ. Tôi học không dở, liên tiếp nhất lớp, tôi viết thư cho cậu, cậu khuyến khích ráng học. Năm đệ lục, tôi tình cờ gặp cuốn “Kim chỉ nam cho học sinh” của ông Nguyễn Hiến Lê, tôi áp dụng ngay vì thấy cách chỉ dẫn của ông cũng giống cách tôi làm, chỉ khác là ông hệ thống hoá một cách khoa học, làm tôi tự tin hơn. Thấy sức học dư, tôi quyết định nhảy lớp. Tôi viết thư hỏi ý kiến ông Nguyễn Hiến Lê, ông khuyến khích. Tôi thi thí sinh tự do Trung học đệ nhứt cấp, đậu.
        Thời đó, thi Trung học đệ nhất cấp mỗi năm hai lần, thi viết và cả vấn đáp tất cả các môn. Tỷ lệ đậu từ năm, mười phần trăm, nên ai đậu được cũng mừng lắm. Tôi viết thư báo tin vui cho cậu và nói muốn vào Sài Gòn học tiếp. Cậu trả lời ngay trên tờ giấy pelure hồng. Đồng ý. Mẹ tôi thấy cậu đồng ý và bà con cũng khuyến khích nên chịu cho tôi đi Sài Gòn “du học”. Thế là tôi từ một nhóc nhà quê đã khăn gói vào Sài Gòn. Ở tạm nhà cậu mợ mấy hôm, rồi tôi tìm chổ ở trọ, ăn cơm tháng trong xóm Bàn Cờ. Cậu đưa tôi đến xin cho tôi vào học đệ tam (lớp mười) trường trung học Pétrus Ký, một trường nổi tiếng mà ngày xưa cậu đã học, nhưng không còn chỗ. Tôi có người bạn đang học trường tư, rủ tôi ghi danh. Thấy đủ sức, lại tiếp tục học nhảy, thi Tú Tài I, đậu. Lần này cậu dẫn tôi đến trường Võ Trường Toản xin cho tôi vào học lớp đệ Nhất để thi Tú Tài II, tôi được nhận. Cuối năm được phần thưởng danh dự toàn trường và thi đậu Tú Tài II hạng khá, rồi vào Y khoa.
        Tôi nghĩ rằng như vậy là tôi đã cố gắng học giỏi để trả ơn mẹ tôi, cho cậu, cho cô Hai tôi. Tôi không sợ học nhiều sẽ điên như cậu nữa. Học bạ của tôi thời gian đầu, cậu ký, thay mặt cho phụ huynh, nhưng sau đó tôi tự ký lấy mà cậu cũng không cần hỏi, cậu tin ở tôi. Cậu đối với tôi từ tình cậu cháu sang gần như bạn bè. Cậu kể cho tôi nghe về đủ thứ chuyện về cuộc đời cậu, về những mối tình của cậu và những ước mơ của cậu. Tôi cũng đưa cậu vào bệnh viện tâm thần mấy lần, hết Chợ Quán đến Biên Hoà, và có lần tôi tính học ngành Tâm thần để chữa cho cậu, lúc tôi đang học y khoa năm thứ năm, thực tập tại Chợ Quán. Lần đó, thấy cậu chịu một đợt chạy điện, giật đùng đùng như cá quằn quại trên tấm thớt, tôi chịu đựng không nổi, thấy ngành này có vẻ “dã man” quá nên thôi.
        Cậu có nhiều bài thơ hay. Bài thơ về bà rất cảm động:
        “Má ơi con má điên rồi
        Má còn trông đứng trông ngồi mà chi…”
        Rồi trên bàn thờ ông, tôi lại thấy hai câu đối của cậu:
        “Mắt mở đã thấy xiềng nô lệ
        Hồn đi còn mơ gió tự do”
        Ngày giỗ nào của ông bà, cậu cũng cúng bánh hỏi. Cậu nói, ông thích món bánh hỏi thịt quay. Còn nhớ năm 1960, cậu mợ về Hàm Tân làm mộ cho ông bà, tôi cùng cậu mợ và vài người bà con đi bộ từ La Gi lên Hàm Tân dọc theo biển, con đường ngày nhỏ tôi vẫn thường đi lại, dài trên mười lăm cây số. Biển mênh mông, rừng dương vi vút. Đến Nước Nhỉ, cậu dừng chân nghỉ và nằm lim dim trên đóng cát gạch vụn, dưới bóng mát của các bụi dứa gai um tùm nhìn lên trời mây… Một lúc cậu gọi tôi đến và đọc cho tôi nghe bài thơ cậu vừa làm. Tôi còn nhớ mấy câu:
        Nằm đây mà ngó lên trời
        Lá cây dứa đã mấy đời đong đưa
        Nằm đây mà nhớ mơ hồ
        Những xanh tóc ấy bây giờ về đâu…
        Thì ra cậu nhớ mấy người bạn cũ, đã cùng nhau xây cái giếng Nguồn Chung này cho khách bộ hành qua đường nghỉ ngơi uống nước ngọt nhỉ từ động cát ra, giữa trưa nắng gắt trên đường dọc biển mênh mông đầy nắng và gió. Bài thơ còn dài, tôi không nhớ hết, trong đó có câu “Ớt, Trì, Dì, Thảo xe trâu…”. Trì là ba tôi đã mất từ lâu, cậu Dì đã hy sinh, còn chú Thảo bị cọp vồ trong rừng thời kháng chiến chống Pháp. Bây giờ giếng đã không còn, chỉ còn mấy miếng gạch vụn. Từ đó lên đến Ngãnh Tam Tân không còn bao xa. Đến Ngãng, cậu chọn một đồi cao, nhìn về biển, Hòn Bà xa xa, dựa đầu lên động cát và núi Tà Cú, đặt ngôi mộ ông bà và dì Nga ở đó. Cậu dành sẵn một chỗ cho Cậu và một chỗ cho mợ. Rồi cậu đọc cho tôi nghe một bài thơ, tôi còn nhớ hai câu cuối:
        Em có ngồi đây mà anh không động đậy
        Biển trời này sẽ thỏ thẻ chuyện đời anh
        Nay, ngôi mộ hoang vu um tùm cây cối và dứa dại, đã trở nên sầm uất, chắc là ngoài dự kiến của cậu. Cũng dịp đó, tôi chịu trách nhiệm vào Sài Gòn, đi bằng xe lửa để mang mộ bia của ông bà và dì Nga về cho cậu dựng mộ. Tôi đi, mang theo một bức “mật thư” của cậu gửi cho một người con gái ở Sài Gòn, người “em tinh thần” của cậu, người con gái đang có những bài thơ tình sầu đăng trên báo, về sau đã là một nữ sĩ thời danh. Bức thư của cậu dài mấy chục trang pelure trắng, chằng chịt những chữ, ngoằn ngoèo những ghi chú, viết thêm… hình như đã viết trong nhiều ngày tháng. Tất cả những tình cảm sục sôi, yêu thương, hờn giận, uất ức, ngậm ngùi… từ văn chương đến thời sự, từ chuyện chung đến chuyện riêng rải trên từng trang giấy pelure trắng, dầy đặc những chữ đọc không ra do cách viết quốc ngữ đặc biệt của cậu. Tôi đến nhà nhà người đó theo địa chỉ cậu dặn, bấm chuông, hỏi người giữ cổng. Một cô gái có vẻ đài các, kiêu sa bước xuống, nhận thư, cám ơn rồi lẳng lặng đi vào. Tôi nhà quê đứng trân, không dám nhìn, vì sợ bất kính với cậu.
        Cậu có những mối “tình tuyệt vọng” lửng lơ mà say đắm, gần như điên, trào ra, túa ra trong cách chăm sóc, trong những bức thư, những bài thơ làm cho người đọc hoảng hồn bỏ chạy. Sau này, khi về Hàm Tân, đi Ngãng, tôi nhớ lần về đó với cậu nên viết bài thơ “Đêm trên biển Lagi”, in trong tập “Giữa hoàng hôn xưa” của tôi:
        Sóng cuốn từng luồng trăng lại trăng
        Đêm Hòn Bà dỗ giấc ai nồng
        Phẳng lì bãi cát buồn hiu ngóng
        Cao vút hàng dương quạnh quẽ trông
        Đá cũ mòn riêu hoài đá Ngãnh
        Nguồn xưa cạn nước vẫn Nguồn Chung
        Về đâu mái tóc xanh ngày ấy
        Câu hỏi ngàn năm có chạnh lòng
        (1990)
        Cậu có những người “em tinh thần”, ai cậu cũng hết lòng thương yêu, giúp đở. Tôi nhớ một trong những người em tinh thần mà cậu thương quý nhất là nữ sĩ Minh Đức HT, một người ở trời Tây thỉnh thoảng về thăm, lúc nào cũng nghe cậu nhắc đến với lòng tự hào. Có lẽ một phần do ảnh hưởng của nữ sĩ khả ái này, cậu đã đặt cho những người “em tinh thần” khác, dòng họ Minh nào là Minh Ph, Minh X, Minh Kh… ai cũng có một chữ Minh ở đằng trước cho dễ nhận ra nhau. Có khi cả các Minh gặp nhau trong một buổi họp mặt chung vui. Có lúc cậu đưa tôi đến thăm Minh này Minh khác, với ai cậu cũng có những bài thơ, bức thư viết trên đủ thứ loại giấy từ tờ pelure trang trọng đến một mảnh giấy gói đồ, tờ lịch, đụng đâu viết đó. Tình cảm cậu đối với mọi người như tràn ngập, như bão lũ, làm cho nhiều người choáng ngợp, sợ hãi.
        Mợ tôi biết hết. Biết mà không hề ghen. Mợ biết các mối tình lơ mơ của cậu là tình nghệ sĩ, tình điên vì quá dạt dào, không tràn ra thì chắc bệnh sẽ nặng hơn. Mợ thì khoẻ khoắn, can đảm, chịu khó, chấp nhận yêu thương một người tài hoa mà khùng khùng điên điên như cậu, chịu hết trận này đến trận khác, đưa cậu đi hết nhà thương điên này đến nhà thương điên khác, thì mợ xứng đáng cho cậu khen “làm vợ Tú Xương dễ, làm vợ Sào Nam cũng dễ, làm vợ Ngu Í mới thật khó…” Cậu có bài thơ “Kén Vợ” rất tuyệt vời mà tôi không dám viết ra đây, chỉ có mợ tôi là người “thục nữ” dám chấp nhận bài thơ đó (*)
        Tôi đến nhà chơi, thỉnh thoảng thấy cậu mợ “choảng” nhau bằng tiếng Tây cho con cháu không biết. Mợ đánh bóng bàn, bơi lội, thích hoạt động xã hội, nhờ đó mà cân bằng với những bốc đồng, văn nghệ, văn gừng của cậu. Cho nên kỷ niệm hai mươi năm, cậu làm bài thơ tặng mợ đã sống hai mươi năm “nước lửa” cùng cậu. Có lúc cậu than “không có người yêu để gọi em” vì cậu chỉ gọi mợ bằng tên thôi. Và mợ cũng chỉ xưng tên với cậu. Chắc là do giao kèo từ đầu giữa hai người. Tôi nể phục mợ tôi và tôi thương cậu. Trong những lúc lên cơn, cậu hay tìm đến tôi, nhiều khi nửa đêm về sáng. Tôi đưa cậu vào nhà, lấy cái gì đó cho cậu ăn và ngồi cho cậu trút hết bao bực dọc chừng vài ba tiếng đồng hồ thì cậu dễ chịu trở lại.
        Làm văn, viết báo, cậu có nhiều biệt hiệu. Khi thì Trình Nguiên, để nhớ mối tình đầu với cô Trình ở quê nhà; Tân Fong Hiện do ghép Tam Tân, Phong Điền, Hiệp Nghĩa (là những xã ở huyện Hàm Tân và Hàm Thuận Nam bây giờ), nơi quê ngoại của cậu. Rồi Ngê Bá Lí, Trần Hồng Hừng, Kì Gob Jó Cì… Viết sử thì Fạm Hoàn Mĩ. Dạy học thì Nguyễn Hữu Ngư. Nhưng nhà báo Nguiễn Ngu Í thì được nhiều người biết đến nhất. Trong danh thiếp, lúc đã nổi tiếng là một ký giả chuyên phỏng vấn các vấn đề văn học nghệ thuật cho tạp chí Bách Khoa thời đó, cậu ghi: Jáo sư, kí jả kông chuiên ngiệp.
        Cuộc đời cậu nhiều truân chuyên, tài hoa nhưng mắc bệnh không thể chữa được. Tuổi lớn, cơn điên lên ngày càng nhặt. Có những đợt cậu nằm Dưỡng trí viện Biên Hoà dài ngày, tưởng đã không qua khỏi. Có lần cậu nằm giữa xa lộ cho xe Mỹ cán, nhưng xe chở thẳng vào Biên Hoà. Có lần trốn viện, bắt đom đóm làm đèn đi trong đêm vì thời điểm giới nghiêm. Câu làm thơ thật nhanh, thật dễ dàng ngay trong lúc lên cơn. Cậu chủ biên tập “Thơ Điên Thứ Thiệt” như để phản đối những người giả điên thời đó. Rồi xuất bản tập “Qê hương” để nói về quê mẹ và nơi chôn nhau cắt rún của mình ở Hàm Tân. Cậu nhờ tôi viết một bài giới thiệu chung, tôi đã viết bài dẫn nhập cho tập Qê Hương với bút hiệu Giang Hồng Vân. Cậu đã có một vài tác phẩm về sử, đặc biệt là về Quang Trung, về Hồ Quý Ly trong thời gian cậu dạy sử ở trung học. Cậu cũng có vài cuốn tiểu thuyết như “Suối Bùn Reo”, “Khi người chết có mặt” v.v… Nhưng tác phẩm nổi tiếng của cậu là “Sống và Viết với …”, tập hợp các bài phỏng vấn mà ai cũng công nhận là tài hoa với các nhà văn nổi tiếng đương thời. Cậu chuẩn bị ra cuốn “Sống và Vẽ với…” phỏng vấn các hoạ sĩ, và “Sống và Đàn với…” phỏng vấn các nhạc sĩ. Tiếc thay ý nguyện chưa tròn. Tập thơ tội nghiệp nhất của cậu là tập “Có những bài thơ”, do Trí Đăng xuất bản, in xong ruột, chưa có bìa, không hiểu sao. Rồi tập thơ cũng được cậu tặng bạn bè quen biết mà chẳng cần có bìa như vậy.
        Thời cuộc đổi thay, cậu thích nghi cuộc sống một cách khó khăn, khác với mợ dễ dàng thích ứng, cậu như ngày càng ngơ ngác hơn, càng điên hơn. Thế rồi một buổi trưa tháng giêng năm Kỷ Mùi (1979), người nhà mợ báo tin cho tôi biết là cậu đang hấp hối. Tôi vội chạy đến nhà cậu ở Bàu Sen, đường Nguyễn Trãi, chạy lên căn gát ọp ẹp, thấy cậu nằm im như chìm trong giấc ngủ sâu. Mợ đi vắng. Chỉ có con trai cậu, Nguiễn Hữu Nguiên. Tôi làm thủ thuật hồi sinh cấp cứu nhưng vô hiệu. Lần này cậu đi thiệt…
        Những lần trước tôi đến thăm, tuy cậu có yếu nhưng vẫn nói được chút ít, ăn cam, uống chút sữa. Tôi đọc cho cậu nghe mấy câu thơ của cậu và hỏi cậu có biết thơ của ai không, cậu lắc đầu không nói. Trước đó, hình như cậu biết trước cái chết của mình, cậu đã viết một bức thư như là một di chúc cho mợ. Cậu ước ao được thả trôi trên một chiếc thuyền nhỏ, đục lủng đáy, nhét nút lại, rồi để thuyền trôi lênh đênh trên biển Thái Bình Dương, để cậu được nhìn trời mây nước cho thoả thích, rồi rút nút cho thuyền chìm dần và chết trong bụng cá, cho “Ngư về với Cá”. Thế nhưng cậu chết với lửa. Cậu được hoả táng ở An dưỡng địa Phú Lâm và đưa về đặt kề ông bà và dì Nga ở Ngãnh Tam Tân. Tôi nhớ hai câu thơ từ lâu của cậu:
        Bao nhiêu chí trẻ rồi tro bụi
        Một thoáng tình xa cũng ngậm ngùi
        Và hình như cuộc đời cậu gói ghém vào hai câu đó. Nào chí trẻ, nào tình xa, nào tro bụi. Chí trẻ chắc không ai hơn cậu, muốn vun gươm, muốn dời núi lấp biển đến nỗi hoá điên; tình xa với bạn bè thân thuộc em cháu, với cả những người tình không quen biết, với quê hương núi Cú hòn Bà, với quê hương Việt Nam, rồi sau đó là tro bụi. Cậu đã làm câu đối cho mình.
        Mấy lượt tung lòng, được gì chăng, hay trong ai ghi uất hận!
        Đòi phen nâng bút, còn gì chăng, hay trên cát viết ngu ngơ…
        Thế nhưng cậu làm được nhiều hơn cậu tưởng, và những người thân, những bạn bè, em cháu, người người quen biết… không ai không quý mến cậu, không ai không thấy được cái tình của cậu đằm thắm, mênh mông, thành thực, sâu lắng. Những ai gần gũi cậu sẽ cảm nhận được cái tình đó, cái tình vượt lên trên cái tình bình thường. Riêng tôi, tôi luôn nhớ cậu và nhớ những ngày còn thơ, cậu đã thay mẹ tôi, dẫn tôi đến trường học, một ngôi trường tiểu học nhỏ bên bờ sông Cà Ty, Phan Thiết. Mới đó mà đã hơn bốn chục năm!
        (*) Cậu đọc cho tôi nghe. Tôi được mợ cho phép “công bố” sau khi cậu đã mất 20 năm:
        “Ta là người lữ khách không xu
        Từ trong bụng mẹ thành thằng ngu
        Chí ngốc lỡ làng tan mộng trắng
        Ai người thục nữ dám nâng…?

      • Nguyễn thị Nha Trang
        11/08/2011 lúc 00:41

        Phay Van mến ,

        Học thêm , Dạy thêm , vốn dĩ bản chất sự việc không có gì là ” xấu ” – trước 1975 ở miền Nam cũng có dạy thêm và học thêm , nhưng rất trật tự , đúng đối tượng cần học , và mang đậm ý nghĩa thực chất của việc cần phải học thêm –

        Nhưng sự rối ren , bùng nhùng , bát nháo ….đầy tính chất tiêu cực của bi hài kịch học thêm dạy thêm trong xã hội hiện nay , thì quả thật là …bó tay !

        Hệ lụy này là Lỗi , là Tội của Mỹ Ngụy để lại … hay là Lỗi , là Tội của nền giáo dục xhcn ưu việt dưới sự lãnh đạo sáng suốt của đcsvn đây ta…!?

      • 11/08/2011 lúc 10:44

        đúng vậy, nếu tự nguyện học thêm thì không sao, như HL cũng yêu cầu CS và TC học thêm Anh ngữ và Toán+Quốc ngữ cho vững kiến thức đó nàng Phay. Nhưng đó là hoàn toàn tự nguyện và HL xét thấy cần thiết không như ở VN là thầy cô không dạy hết ở trường mà bắt học trò đến nhà học để kiếm tiền, ai k đến học thì k làm được bài kiểm tra..Ở lớp học thêm thầy cô lại còn có những hành động làm buồn các học sinh nghèo!

      • Nguyễn thị Nha Trang
        11/08/2011 lúc 22:02

        Phay Van mến ,

        Bản chất và mục đích của việc học thêm ở miền Nam trước đây là 1 khái niệm …rất rộng nhưng cũng lại …rất hạn chế !

        Rộng ; vì nó bao trùm mọi đối tượng , mọi lĩnh vực…. chứ không riêng gì học sinh phổ thông…( Tuy nhiên khẳng định , Thế hệ của chị và các thế hệ anh chị trước chị , không hề có khái niệm đi học thêm trong đầu …, nhưng chị nhớ đâu khoảng năm 1973 trở đi thì mới có phong trào luyện thi tú tài 2 , nhưng cũng chỉ hạn chế trong 3 môn toán , lý , hóa . Chứ không như bây giờ : từ lớp 1 cho tới lớp 12 và hầu như học thêm tất cả các môn…! Ôi việc học sao mà biến tướng thế không biết ! )

        Hạn chế : vì nó là nhu cầu thật sự và thiết thực của 1 số đối tượng nào đó , cảm thấy mình cần phải bổ sung cho kiến thức còn thiếu của mình , hoặc học thêm chuyên môn để có thể phục vụ cho công việc mà mình đảm trách hiệu quả và tốt hơn .

        Vì vậy việc học thêm nó có ý nghĩa và mục đích rất tốt đẹp rõ ràng , và ý thức người học rất nghiêm túc !
        Chứ không bùng nhùng như thảm cảnh học thêm của các cháu học sinh bây giờ , và cũng không bát nháo như việc học thêm đầy gian dối , lươn lẹo …của loại cán bộ bất tài cơ hội…hạt giống đỏ của đ…hiện nay !

      • Nguyễn thị Nha Trang
        12/08/2011 lúc 23:00

        Phay Van mến ,

        Ừ , không những học sinh là nạn nhân trực tiếp , bị dùng vào ” thử nghiệm , thí nghiệm ” …trong các cuộc cải cách giáo dục tào lao , không giống ai , với mớ kiến thức lộn xộn , hụt hẫng , chắp vá ….! mà còn cả xã hội , không trừ một ai , cũng là nạn nhân phải lo lắng và chạy trối chết để đối phó với cái nền giáo dục xhcn bất nhất , bát nháo , loạn xị…cứ nay cải mai cách này … nữa chứ em , vì nhà nào mà không có con cháu đi học….!

        Chúng ta cũng khách quan mà nói rằng , mà tự hào rằng : học sinh Việt Nam ta thời nào cũng học giỏi lắm chứ !
        Nhưng chính cái gọi là cơ chế chính sách của nền giáo dục xhcn ” phản khoa học ” đã làm thui chột và nản lòng biết bao nhân tài của đất nước….! Cứ nhìn cách ” nuôi và dạy gà nòi ” của các đội tuyển ” gà nòi Olympic ” đi thi các kỳ thi quốc tế thì thấy rõ …chỉ biết thi lấy huy chương khoe khoang ỏm tỏi , rồi sau đó là…..” lặn mất tăm ” trên đấu trường khoa học quốc tế !

        Chúng ta hãy cứ thử vào đọc tham khảo các entries ở mục : Giáo Dục , trong blog Gs Nguyễn Văn Tuấn , ắt sẽ có cái nhìn khách quan , khoa học , về thực trạng và thảm trạng của nền giáo dục xhcn ưu việt ngay …!

    • 10/08/2011 lúc 09:26

      @ Nàng Phay thân mến! TBGC cũng dạy kỹ càng từ mẫu giáo, vườn trẻ đó nàng Phay.Họ dạy đi, dạy lại kiên trì lắm.
      .
      Chính vì vậy HL rất ngạc nhiên khi nhiều người ở VN không tin câu chuyện cậu bé 9 tuổi biết chia sẻ và nhường nhịn ở Nhật hồi động đất. Trên thực tế HL tin là đa số trẻ con Nhật sẽ hành động như vậy vì ngay từ bé tí đã được dạy phải chia sẻ rồi.

      HL thấy ở TBGC họ dạy con người để sống cho ra con người và để làm sao survival chứ không như mình nhồi nhét kiến thức mà không dạy kỹ năng sống chút nào.
      Về VN cho trẻ con chơi với con hàng xóm là nổi rõ sự khác biệt về giáo dục ngày nàng Phay à. Trẻ con nhà HL chơi với bạn chừng mực, nếu làm bạn đau, bạn kêu là dừng ngay và xin lỗi..trẻ con nhà mình có khi thấy bạn kêu càng cố trêu..

  5. 09/08/2011 lúc 14:27

    Chị Nha Trang còm chí phải. Cảm ơn chị. Tuổi nhỏ nên học những cái nhỏ trước đã, học những cái to tát cuối cùng trôi tuốt tuồn tuột…

    • Nguyễn thị Nha Trang
      09/08/2011 lúc 22:38

      Chào Thuận Phong ,

      Cảm ơn Thuận Phong đã đọc comment và đồng cảm chia sẻ suy nghĩ với Chị nha .

      Luôn khỏe và vui Thuận Phong nhé !

    • 10/08/2011 lúc 10:33

      lão này quên mất 5 điều bác hồ dạy à ?
      ” ……… tuổi nhỏ làm việc nhỏ …. “

      • hth
        10/08/2011 lúc 12:52

        Khoe với bác Trà là lớn tướng như em rồi, em vẫn thuộc 5 điều Bác dậy đấy nhá ( bọn con em thì em không chắc ).
        Nhớ lại ngày xưa ( không nhớ rõ năm nào ), trường em còn bắt học thuộc lòng cả 6 điều bác Đồng dạy. Thú thực Bác Hồ dạy còn có vần có vèo, ngắn, dễ thuộc. Bác Đồng dạy dài và ” văn xuôi “, khó lắm. Cô giáo kiểm tra, thằng nào cũng ấp úng. Cô lại hỏi: các em so sánh 5 điều …… và 6 điều……. Một thằng ôn con phát biểu ngay: Thưa cô bác Đồng ” lắm điều” hơn bác Hồ ạ. Cả lớp cười ồ ồ. Bây giờ gọi là bó tay, hihihi……

  6. 09/08/2011 lúc 21:56

    Cái nhỏ nhất là “Ta nên thương loài vật”
    Chợt nhớ tới có lần trên TV giới thiệu cách làm 1 món ăn đặc sản của TQ: món cá ngáp. Từ từ rán chín con cá trong dầu nhưng để lại phần đầu vẫn còn sống. Bày lên đĩa, ăn xong rồi mà miệng con cá vẫn còn ngáp .
    Ghê thay cho những người nghĩ ra, những người chế biến và những người ngồi ăn.

  7. Nguyễn thị Nha Trang
    10/08/2011 lúc 00:29

    Phay Van mến ,
    Với niềm bùi ngùi , luyến tiếc…1 nền giáo dục đượm đầy tính nhân văn…..đã quá vãng ! Chị thử thả hồn…cố gắng nhặt nhạnh những gì còn đọng lại trong ký ức , qua những lời kể của các bậc cha ,chú , anh chị…trước đây , cũng như những sưu tầm mà Chị đã từng có dịp nghe và tìm hiểu …
    Em và các bạn xem có chỗ nào thiếu , hoặc sai sót ..thì bổ sung , điều chỉnh…để cho entry này phần nào đó đượm thêm ý nghĩa , Phay Van nhé….:

    Thiết tưởng trước tiên chúng ta cần có vài nét sơ lược về :
    * Cấp học Sơ Đẳng ( Élémentaire ), gồm 3 lớp :
    1/ Lớp Năm , tức lớp Đồng Ấu ( Cours Enfantin )
    2/ Lớp Tư , tức lớp Dự Bị ( Cours Préparatoire )
    3/ Lớp Ba , tức lớp Sơ Đẳng ( Cours Élémentaire )
    Sau lớp Ba , nếu thi đậu bằng Sơ Học Yếu Lược , thì được thi Concours lên lớp Nhì .
    Nếu thi đậu , thì được học tiếp 3 năm cấp Tiểu Học ( Primaire Supérieur ) , gồm :
    1/ Lớp Nhì Nhất Niên ( Cours Moyen Première Anneé )
    2/ Lớp Nhì Nhị Niên ( Cours Moyen Deuxième Anneé )
    3/ Lớp Nhất ( Cours Supérieure )
    Và cuối năm lớp Nhất này , sẽ thi lấy bằng Tiểu Học Cụ Thể ( Certificat d’Études Primaire Supérieure )

    * về Sách Giáo Khoa Thư , có 3 cuốn , gồm 2 loại :
    1/ Quốc Văn Giáo Khoa Thư :
    a/ Quốc Văn Giáo Khoa Thư : cho lớp Sơ Đẳng ( Lecture cours Élémentaire ) .
    b/ Quốc Văn Giáo Khoa Thư : cho lớp Dự Bị ( Lecture cours Préparatoire )
    và :
    2/ Luân Lý Giáo Khoa Thư : cho lớp Đồng Ấu ( Morale cours Enfantin )

    Với nội dung entry : Sách Luân Lý Giáo Khoa Thư dành cho lớp Đồng Ấu , thì Sách này gồm có 3 chương :

    Chương 1 : nói về bổn phận của trẻ trong gia đình , gồm các bài : Gia Tộc , Yêu mến cha mẹ , kính trọng cha mẹ , Vâng lời cha mẹ , Biết ơn cha mẹ , Giúp đỡ cha mẹ , Phải thật thà với cha mẹ , Anh chị em , đối với ông bà , Thờ phụng tổ tiên , Người trong họ , Tôi tớ trong nhà , Người quen thộc với nhà mình , Một nhà xum họp , Một nhà hòa hợp , Nghĩa gia tộc .

    Chương 2 : nói về bổn phận của trẻ trong học đường , gồm các bài : Trường học , Phải yêu mến thầy , Phải tôn kính thầy , Phải vâng lời thầy , Phải biết ơn thầy , Phải thật thà với thầy , Chuyên cần , Đi học phải đúng giờ .

    Chương 3 : nói về những tính tốt và tính xấu của trẻ , gồm các bài : Lòng tốt đối với bạn , Phải biết chiều bạn , Bênh vực kẻ yếu , Phải giúp đỡ lẫn nhau , Nghĩa hợp quần , Chọn bạn mà chơi , Phải sạch sẽ , Có thứ tự , Phải chú ý , Phải làm lụng , Phải chăm học , Đứa học trò xấu , Lười biếng , Không có thứ tự , Không có ý tứ , Tính ương ngạnh , Tính khoe khoang và hợm mình , Tính nhát sợ , Tính nói dối , Tính nói xấu , Tính mách lẻo , Tính hay chế nhạo , Tính ghen , Tính tức giận , Tàn bạo , Tính độc ác .

    Qua các bài học ở 3 chương trên , chúng ta thấy các nhà Sư Phạm Giáo Dục thời ấy , có thể nói là đã không bỏ sót bất cứ những yếu tố nhân văn , nhân bản , đạo đức…nào , nhằm để đưa đến mục đích cuối cùng là giáo dục 1 cách hoàn thiện nhân cách và tư cách cho trẻ ….

    Đối chiếu nội dung , cũng như nhìn lại thực trạng và thực chất chương trình giáo dục cấp tiểu học 36 năm qua dưới mái trường xhcn…..thấy mà thật xót xa cho sự thiệt thòi của biết bao thế hệ các cháu…

    Bảo sao mà không bùi ngùi và luyến tiếc cho được…..

    • 10/08/2011 lúc 09:29

      @ Chị Nha Trang!
      Em nghĩ quá tiếc những nền giáo dục đầy nhân văn trước khi cm đến chị à.
      Em tiếp xúc với các bác ở miền Bắc được hưởng nền giáo dục trước 1945, và với các anh chị ở miền Nam được hưởng nền giáo dục trước 1975 thấy khác hẳn. VÀ vì được giáo dưỡng chu đáo, kỹ càng nên phong cách của mọi người không bị thời cuộc chi phối…

      • Nguyễn thị Nha Trang
        10/08/2011 lúc 23:55

        Hà linh mến ,

        Ừ , rất tiếc thật em ạ ! nhưng đành bất lực vì sự trớ trêu và nghiệt ngã của lịch sử :
        Quyền hành nằm trong tay những kẻ ” Trí Thức Rừng , Trí Thức Ba Rọi “

    • Nguyễn thị Nha Trang
      10/08/2011 lúc 23:33

      Phay Van & Hà Linh yêu mến ,

      Tôn Sư Trọng Đạo , là đạo lý tốt đẹp ngàn đời của dân tộc VN mình . Chị không rõ trước 1975 ở miền Bắc tinh thần này thế nào , chứ ở miền Nam , chị khẳng định chắc chắn tinh thần Tôn Sư Trọng Đạo được thể hiện rất nghiêm túc , thực chất , chứ không là hình thức !Người Thầy Cô , ngoài kiến thức học vấn nghiêm túc xứng tầm , và trình độ chuyên môn nghiệp vụ sư phạm đúng chuẩn được đào tạo chính quy bài bản , Người Thầy Cô còn phải luôn luôn tự nghiêm khắc với bản thân mình trong mọi sinh hoạt của đời sống …để luôn xứng đáng là Một Nhà Mô Phạm , được mọi thành phần trong xã hội thật sự kính trọng và ngưỡng mộ !

      Blog của Phay Van có entry : ” Nhìn lại việc thi Tú Tài ở Việt Nam trước 1975 ” Biên khảo của Gs Nguyễn Văn Lục rất giá trị , là 1 minh chứng sinh động cho điều chị nói ở trên .

      Rất mong mọi người đọc qua entry này , để có cái nhìn khách quan và cảm nhận đúng !

      P/s : Phay Van em , chị tiết lộ nhé : năm học Đệ Tứ , cá nhân chị cũng như rất rất nhiều anh chị khác đã nằm lòng Cổ Học Tinh Hoa – chứ không phải thuộc lòng vẹt em ạ – và hiểu tường tận một cách vững chắc từng bài một – từ bài đầu tiên Chính Danh , cho đến bài cuối cùng Ngu Công Dọn Núi – , chứ không đợi đến khi lấy Tú 2 và vào Sư Phạm em ạ !

      • 11/08/2011 lúc 07:31

        Chị Nha Trang: trước 1975 trong mỗi phòng học tại trường tiểu học của em đều có câu “Tiên học lễ, hậu học văn”. Sau 1975 nó được thay bằng “Dạy tốt, học tốt”. Câu này vừa răn thầy vừa răn trò. Xem ra cái uy tín, danh dự của ông thầy bị hạ thấp ngang… học sinh. Hết LỄ rồi chị ạ. Hồi đó em thấy rất chướng, nhưng không dám nói ra để bị chụp mũ phản động. Khẩu hiệu này vẫn ngang nhiên ngự trị trong các phòng học xhcn hiện nay.

      • Nguyễn thị Nha Trang
        11/08/2011 lúc 22:54

        Phay Van mến , Chị đồng quan điểm với em .
        Cái khẩu hiệu ” Dạy tốt , Học tốt ” : Ngẫm kỹ mà thấy xót xa , tủi ..cho vai trò và vị trí của người Giáo chức trong xã hội xhcn trước đây cũng như hiện nay… ! Cái danh xưng cao quý đầy kính trọng Thầy , Cô …đã bị hàm ý xúc phạm thay thế bằng từ ” Thợ Dạy ” qua cái khẩu hiệu này ! Nói không quá lời , thật là cục súc và xúc phạm thô thiển hết chỗ….chê !
        Nhưng khổ nỗi , nhiều ” thợ dạy ” lại cứ vênh váo và ra rả ” tuyên truyền ” 1 cách vô thức cho cái khẩu hiệu ” hết chỗ chê ” này mới chết chứ…

      • 12/08/2011 lúc 12:57

        Chị Nha Trang: hồi em học lớp 12, có một thầy giáo dạy văn kiêm bí thư đoàn thanh niên cs của trường. Thầy đã không là một tấm gương cho tụi em, hay là tại bản chất môn văn học thời ấy nó thế (văn không phải là người?). Có một bạn nam lớp em viết lên bảng nhân giờ ra chơi: Dạy tốt! Thầy phạt cả lớp sau đó, vì chúng em không khai ra bạn ấy. Thật thầy chẳng ra thầy, trò chẳng ra trò. Thế hệ chúng em hư hỏng hết chị ạ.

  1. No trackbacks yet.

Bình luận về bài viết này