Phần II

Phần 2

1. Đất này thuộc ta
Trận chiến Exodus đã chấm dứt.
Trong khoảng thời gian một vài phút, những chữ: “Exodus sẽ được phép ra đi” vang lên trên khắp các làn sóng điện. Trong khoảng thời gian vài giờ, tin này được đăng trên trang đầu của tất cả các nhật báo trên thế giới.
Tại đảo Chypre, dân chúng vui mừng hò reo và toàn thể mọi người trút ra một tiếng thở dài nhẹ nhõm.
Nhưng trên chiếc tàu kéo cũ kỹ bây giờ đã trở thành lịch sử này, các trẻ em không còn hơi sức để ca khúc khải hoàn nữa.
Người Anh khẩn khoản yêu cầu Ben Canaan cho tàu trở lại bến để người Anh có thể săn sóc về sức khỏe cho các trẻ, tiếp tế thực phẩm nhiên liệu cùng xét lại máy móc. Ari hoàn toàn vui lòng nhận lời. Ngay lập tức một hoạt động cuồng nhiệt diễn ra trong hải cảng. Cả một đoàn y sĩ quân y Anh lên tàu và cho đưa những trường hợp nặng nhất lên tầng dưới khách sạn Dôme bây giờ được xử dụng như dưỡng đường tạm thời. Cả một làn sóng quà tặng – thực phẩm, quần áo, chăn màn – ùa đến cầu tàu. Các kỹ sư của Hải quân Hoàng gia xem xét tàu từ đầu chí cuối, trám các lỗ thủng cùng chỗ nước rỉ, thử lại các máy tàu. Nhiều ê kíp vệ sinh cọ rửa, tẩy trùng chiếc tàu cũ cho đến khi tàu bóng lên như đồng bạc cắc mới.
Kitty lo lắng chờ đợi mãi cho tới khi nhiều y sĩ đã cho biết tình trạng Karen đã khả quan, nàng mới ban cho mình phép được hưởng tiện nghi xa xỉ: một chậu tắm nước nóng, một đĩa thịt bò lớn, hai ly whisky và một giấc ngủ kéo dài mười bảy giờ liền.
Khi thức giấc, Kitty nghĩ là mình sẽ bắt buộc phải có một quyết định. Vấn đề nàng phải giải quyết là một vấn đề lưỡng nan: hoặc là nàng chấm dứt, dứt khoát chuyện Karen, hoặc là nàng theo cô gái này sang Palestine.
Đến giờ uống trà, Mark đến phòng thăm nàng. Nàng hỏi :
– Vẫn náo nhiệt trong các tòa soạn các báo chứ anh!
– Nói thực ra, thì không. Câu chuyện Exodus đã cũ hai mươi bốn tiếng rồi và trang báo thuật lại chuyện ấy bây giờ chỉ còn dùng vào việc gói cá ngoài chợ thôi. Ngày tụi trẻ lên bờ ở Haifa, báo chí còn tìm thấy chất liệu để chạy một tít thật đẹp cùng với một bức hình cũng thật đẹp. Rồi sau đó là hạ màn!
– Con người chóng quên quá…
– Không đến nỗi thế đâu em. Chẳng qua là nhân loại ưa cục cựa thôi. Luôn cần tin tức mới, luôn luôn tin tức mới!
Kitty không đáp. Suy nghĩ, nàng nhấm nháp ly trà. Mark châm một điếu thuốc, thu hình ngồi thoải mái trong một ghế bành, gác hai chân lên thành cửa sổ. Kitty hỏi :
– Còn anh, anh định làm gì?
– Anh? Xét rằng kẻ mang tên Mark Parker đã hơi lạm dụng lòng hiếu khách và tử tế của Đức Vua Anh quốc khi ở trên đảo này… Trước hết anh sẽ trở về Hoa Kỳ để hít thở không khí quê nhà một chút, sau đó có lẽ anh sẽ đi một vòng Á châu. Hình như tình hình rắc rối ở đó.
– Anh có tin rằng người Anh sẽ để anh vào Palestine không?
– Cái gì chứ cái đó chắc là không quá. Họ không lấy gì làm mến chuộng anh cho lắm, nếu không phải là tệ hơn. Giữa đàn ông với nhau, anh thông cảm với họ lắm.
– Anh cho em một điếu thuốc.
Chàng châm một điếu Chesterfield và đưa cho nàng.
– Về phần em, không thể nói em đã để phí thì giờ. Trước khi đi ngủ, em còn đủ sức chạy tới tận văn phòng Thống đốc để yêu cầu được chiếu khán nhập nội Palestine! Dĩ nhiên là người Anh, cư xử như các gentleman hoàn toàn, đã chấp thuận cho em, còn nghiêng mình kính nể thêm là khác. Đối với họ, em chỉ là một thiếu phụ Hoa Kỳ trong sạch và khỏe mạnh đã thi hành bổn phận nữ điều dưỡng của mình. Dĩ nhiên là nếu An ninh Quan đội biết là em đã chơi giỡn bằng cách làm giao liên cho Mossad… Thôi, tóm tắt lại! Em sẽ đi Palestine hay là không đi?
– Nếu em biết được em muốn sao nữa thì còn nói gì nữa!
– Em muốn nói là vẫn chưa quyết định sang xứ đó!
– Em chỉ muốn nói là chính em cũng chưa biết nữa.
– Rồi, cô bé. Anh đoán là em muốn anh thúc đẩy em sang Miền Đất Thánh. Em muốn anh nhắc đi nhắc lại là: phải đi Palestine em phải đi Palestine. Có đúng thế không?
– Chính ra thì tại ý nghĩ phải sống với toàn dân Do Thái không mà thôi… Em không bao giờ thấy thoải mái khi gặp gỡ họ hết… Em không làm sao khác được…
– Mặc dù thế em cảm thấy hoàn toàn thoải mái với Karen, phải không? Karen vẫn làm em nhớ tới đứa con gái đã chết?
Kitty lắc đầu.
– Thực ra thì không. Trước kia thôi. Karen có cá tính quá mạnh để có thể… bất cứ ai khác. Nhưng em yêu, em cần nó…
Mark ngắt lời :
– Cứ cho là thế đi. Nhưng thưa bà Kitty Fremont, tôi muốn được hỏi bà một câu khác, một câu hỏi nổ như trái phá…
– Em chờ…
– Kitty! Em có yêu Ari Ben Canaan không, có hay là không?
Kitty quay mặt đi. Nàng có yêu người thanh niên to lớn người Palestine đó không? Chắc chắn là nàng đã ý thức rằng sự hiện diện, giọng nói, mắt nhìn của chàng đã là một mê hoặc đối với nàng, tính cương quyết và sức mạnh thể xác làm nàng sợ hãi mơ hồ và lòng can trường của chàng làm nàng đầy thán phục. Nàng cũng nhớ lại có những lúc nàng ghét chàng cay đắng. Nhưng các tình cảm phức tạp này có phải là tình yêu không? Nàng nói nhỏ :
– Em cũng không biết nữa, anh Mark. Em không thể nào gần hay dấn thân với anh ấy được… Nhưng em cũng hoàn toàn không thể tránh xa, chạy trốn anh ấy… Em không hiểu tại sao thế. Em không hiểu nổi nữa….

Một lúc sau Mark ra về. Kitty thay y phục, rời khách sạn. Mặt trời vừa lặn khi nàng ra tới các ke. Phía bên kia đường, Zev Gilboa và Joab Yaiconi đang coi sóc việc đưa thực phẩm lên tàu. Kitty liếc mắt nhìn chung quanh kiếm, hy vọng sẽ trông thấy Ari. Nhưng nàng không thấy chàng đâu hết.
Đáp lễ Zev và Joab chào nàng một cách thân hữu, nàng tiến về phía hải đăng. David Ben Ami ngồi trên một thềm gạch đang ném những viên sỏi cho thác lát trên mặt nước yên tĩnh của hải cảng.
– Shalom, Kitty! Chị có vẻ khỏe hẳn rồi đó.
Nàng ngồi xuống bên David. Trong khoảng thời gian vài phút, hai người ngắm những ánh nắng chiều phản chiếu trên mặt biển. Kitty hỏi :
– Anh đang nghĩ tới xứ sở anh phải không?
– Vâng.
– Nghĩ tới cả Jozdana nữa… Có phải tên nàng… Em gái của anh Ari? Anh sắp được gặp lại cô ta chứ?
– Nếu may mắn một chút, tôi có thể được sống với nàng vài ngày.
– Chúc anh được toại ý. Anh David, hãy cho tôi biết các trẻ em của Exodus, chúng sẽ ra sao ở Palestine?
– Chúng tôi sẽ lo cho chúng. Chúng là tương lai của chúng tôi.
– Nhưng… Hẳn là chúng cũng có thể gặp nguy hiểm chứ?
– Không thể tránh được. Nhiều nguy hiểm hơn là khác.
Hai người im lặng. Sau cùng David táo bạo hỏi :
– Chị có đi cùng với chúng tôi không?
Nàng cảm tưởng như tim mình ngừng đập.
– Tại sao anh hỏi tôi vậy?
– … Chúng tôi đã bắt đầu quen có chị rồi. Hơn nữa anh Ari có hôm đã nói tới vấn đề này.
– Nếu anh Ari muốn biết rõ, tại sao tự anh ấy không đi hỏi thẳng tôi?
David cười :
– Anh Ari chẳng bao giờ yêu cầu ai cái gì bao giờ.
Đột nhiên Kitty quyết định :
– Anh David, anh phải giúp tôi việc này. Tôi đang cảm thấy phân vân, không hiểu rõ chính tôi nữa.. Anh hình như là người duy nhất có thể hiểu…
– Tôi sẽ hết sức giúp…
– Anh này, cho tới giờ ít khi tôi quen biết người Do Thái. Thú thật với anh là người Do Thái làm tôi ngỡ ngàng.
– Điều đó không có gì lạ đâu chị. Chính chúng tôi còn làm chúng tôi ngạc nhiên ngỡ ngàng nữa là!
– Tôi xin lỗi là nói quá thẳng, nhưng tôi có cảm tưởng là một người lạ mặt giữa các anh…
– Điều đó hoàn toàn là bình thường, chị Kitty ạ. Cảm tưởng của chị cũng là cảm tưởng của đa số thiên hạ thường có đối với chúng tôi. Ngay cả ở một số rất ít người mà chúng tôi gọi là bạn, những người đã tỏ ra hết sức tận tụy đối với chúng tôi một cách có thể gọi là cuồng nhiệt, họ cũng có thứ cảm tưởng như vậy. Những người này cho rằng có lẽ họ đã đồng lõa theo một cách thế nào đó với các tội trạng mọi người đã gây ra cho chúng tôi, những kẻ khác thì muốn làm người Do Thái… Giữa chúng ta tôi nói thật, đó quả là một ý nghĩ khôi hài! Nhưng quả thật thì bọn tôi hợp thành một tập thể kỳ lạ.
Kitty thở dài :
– Lấy một người như anh Ari Ben Canaan chẳng hạn: sau bộ mặt lạnh lùng thản nhiên ấy, anh ấy là ai? Liệu anh ấy có một đời sống thực sự không?
David quả quyết :
– Có thực chứ. Nhưng cũng rất phức tạp. Muốn định nghĩa anh Ari, tôi phải nói anh là sản phẩm thất bại, một thứ hoang thai của lịch sử.
Chậm chạp, hai người trở về khách sạn trong bóng hoàng hôn đang rơi xuống bao phủ thành phố.
David nói tiếp :
– Tôi tự hỏi không biết bắt đầu từ đâu đây. Muốn cho chị hiểu Ari, chắc chắn tôi phải đi ngược hai thế hệ, đến tận ông của Ari là Simon Rabinsky sống ở Jitomir xứ Ukraine bên Nga: như vậy chúng ta trở ngược lại quá khứ khá xa, mãi đến tận năm 1884.

Phần 2

2. Jitomir (Ukraine), 1884

Simon Rabinsky, làm nghề đóng giày, cùng vợ là Rachel có hai con trai, niềm vui và kiêu hãnh của một đời sống buồn tẻ và cực khổ. Vốn linh hoạt và hăng hái, Simon Rabinsky có cái lưỡi sắc bén cho một tâm hồn lúc nào cũng tỉnh táo. Con trai cả là Jossi to lớn, cao gần hai thước với mái tóc bờm sờm đỏ hung, hiền và hay suy tư bao nhiêu thì Yakor, đứa con trai thứ, càng ồn ào và hay gây gổ bấy nhiêu. Nếu đấng sáng tạo nghĩ tới chuyện đặt trí óc phong phú của người này vào trong thân thể cường tráng của kẻ kia thì chắc chúng ta kể như sẽ có một siêu nhân.
Gia đình Rabinsky hết sức nghèo khổ, ở trong phần đất Tây Nga bao gồm các xứ Bessarabie, Ukraine, Crimée và một vài vùng Bạch Nga, nghĩa là trong vùng những người Do Thái được phép cư ngụ tại Nga. Vùng này được gọi là “vùng ngụ cư” ấn định vào năm 1804. Trên thực tế, vùng đó là cả một ghetto vĩ đại: Nioscou và Saint¬Petersbousg đều cấm không cho người Do Thái bén mảng đến, ngoại trừ một số hiếm hoi khá giàu để xin được quyền cư ngụ đặc biệt cho con cái bằng cách biếu khéo léo “các món quà” những nơi cần biếu. Thực ra còn một cách nữa để thoát ra ngoài “vùng cư ngụ” bắt buộc ấy nhưng các người Do Thái rất mong được khước từ: đó là 25 năm quân dịch bắt buộc mà thanh niên Do Thái phải thi hành theo một tỷ số bách phân nhất định.
Trong khu Do Thái ở Jitomir cổ xưa và đầy ắp người ở, Simon Rabinsky cùng gia đình đều phải chịu tới hai thứ giam giữ: một mặt là lệnh cấm rời khỏi vùng, một mặt khác là một cuộc sống đã vạch sẵn, chán nản và gò bó. Các tiếp xúc giữa các cộng đồng Do Thái cùng đa số dân Nga theo Ki-tô giáo trên bình diện xã hội hoàn toàn là không có, còn trên bình diện thương mại thì cũng rất ít. Người khách từ bên ngoài tới viếng đều đặn nhất là nhân viên thu thuế, một nhân vật rất đáng sợ lúc nào cũng sẵn sàng sai áp bất cứ cái gì, từ các giá nến thờ đến các đồ thờ phụng khác. Ít đều đặn hơn nhưng lại thường xảy ra, đó là các vụ xâm nhập của dân Cosague, sinh viên, hợp thành từng đoàn người dữ tợn ham muốn giết người ào vào trong khu!
Vì bị tách rời ra khỏi cộng đồng rộng lớn của quốc gia, những người Do Thái ít cảm thấy quyến luyến “quốc-gia-mẹ” này. Ngôn ngữ thông dụng là yiddish, một thứ Đức ngữ lai căng, còn ngôn ngữ cầu nguyện là tiếng hébreu cổ. Họ khác các dân Nga ngay cả về phương diện y phục: họ đội mũ đen và cái áo đuôi tôm đen bằng vải gabardine. Và dù lệnh cấm, nhiều người để tóc uốn quăn thành từng lọn tròn xoắn bao quanh khuôn mặt – đối với người Nga lúc đó, việc săn bắt một người Do Thái có tóc kiểu này để cắt các lọn tóc quăn ấy là cả một trò thể thao thịnh hành.
Dù gia đình Rabinsky sống cảnh nghèo khổ, họ vẫn có những thú vui – nói thực ra thì rất khiêm tốn – cùng những trò giải trí đơn giản. Có những vụ ngồi lê đôi mách trong khu, những vụ sinh nở, cưới xin, lễ xác tín và cả những vụ tang ma nữa. Cũng có những ngày lễ tôn giáo và lễ đẹp nhất là họ cử hành ngày sabbat hàng tuần. Chiều thứ sáu, Simon Rabinsky cùng các gia trưởng khác đều trở thành như vua hết. Ngay khi tiếng kèn nổi vang lên ngoài các đường ngõ hẹp, Simon đặt các dụng cụ làm việc xuống để chuẩn bị hai mươi bốn giờ sống cảm thông với Thượng đế. Sau khi đã cử hành các nghi lễ tẩy uế thân xác trong các nhà tắm công cộng, Simon mặc chiếc cafetan bằng lụa đen đẹp đẽ, đội chiếc mũ có viền lông thú, kiêu hãnh đi cùng Jossi và Yakov đến nhà thờ.
Khi trở về nhà, theo tục lệ đòi hỏi, ông vẫn kiếm ra một gia đình nghèo hơn mình để mời đến cùng chia xẻ bữa cơm ngày lễ. Dưới ánh sáng của các ngọn nến, ông đọc một lời chúc phúc, thêm vào vài câu biết ơn thượng đế, Rachel dọn ra cá chiên, nui nấu trứng, khoai nghiền gà. Sau bữa cơm tối, gia đình đi dạo trong ghetto hay tiếp đón bạn bè (ở cửa hiệu vì nhà ở quá chật không có phòng khách).
Ngày thứ bảy, Simon Rabinsky cầu nguyện, suy tư, nói chuyện với các con để xem chúng tiến bộ tới đâu cùng cho biết những kiến thức của ông về phương diện triết lý và tôn giáo. Và khi hoàng hôn xuống loan báo chấm dứt lễ sabbat, toàn thể gia đình cùng cất tiếng hát bài hát cổ xưa của các ghetto: “Hân hoan mừng, ô Israel… cầu mong niềm thất vọng sẽ tiêu tan…”
Ngay hôm sau dĩ nhiên lại phải kéo cầy trả nợ, trở lại với các thực tại cực khổ của đời sống thường nhật. Trong căn hầm vừa dùng làm nơi ở vừa dùng làm quán nhỏ, Simon Rabinsky lại bắt đầu cúi người xuống bàn làm việc, bàn tay khô héo xiết chặt lấy cái đục. Chính vào những lúc như thế này, đã có khi ông thì thào đọc lời cầu than có từ nhiều ngàn năm rồi, bắt nguồn từ ngày những người cổ Do Thái bị bắt giữ ở Babylone :
“Nếu ngày nào tôi quên Jérusalem, tay phải tôi sẽ không còn khéo, lưỡi tôi sẽ cứng lại… nếu, một ngày nào tôi không thích Jerusalem hơn niềm vui thích thú nhất của tôi…”
Là một người có niềm tin rất sâu xa, quen tìm lại được an ủi mới mỗi khi cầu nguyện, Simon vẫn không thể không nhận thấy sự cùng khốn bao quanh mình.. Đôi khi ông thốt lên: “Cho tới khi nào đây, thưa ngài? Lũ chúng con phải bị sống trong bóng tối này cho tới khi nào?”. Nhưng sau đó hy vọng lại nảy sinh trong tâm ông, đột nhiên tâm hồn đầy hăng hái, ông đọc lại đoạn ông thích nhất trong lời cầu nguyện ngày phục sinh:
“Năm sau, về Jérusalem..”
Cái năm sau ấy, bao giờ mới tới? Liệu đấng cứu thế một ngày kia có tới đưa họ về xứ Israel chăng?

Phần 2 – 3
Yakov cùng Jossi từ giáo đường Do Thái trở về. Yakov vừa đi vừa nhảy, nghịch ngợm bằng cách ném những viên sỏi lớn vào các cột đá góc đường hay cổng các nhà (bao giờ Yakov cũng trữ sẵn những viên sỏi này trong túi, phòng khi gặp những tên du đãng rình rập các người Do Thái để cướp bóc). Jossi dáng đi đứng đắn nghiêm trang, cúi đầu xuống, đang suy ngẫm về cách diễn giải tế nhị một đoạn kinh Torah. Khi hai người sắp quẹo vào ngõ dẫn về nhà, Yakoy nắm lấy cánh tay anh.
– Tối nay lại có một buổi họp ở cửa tiệm của Hacohen. Lần này anh có tới không?
– Không.
– Đáng lẽ ra anh phải tới mà: thuyết trình viên là một Bilu thứ thiệt do Palestine gửi tới.
Jossi cảm thấy tim mình đập loạn lên: một Bilu thứ thiệt, một người xứ Palestine! Chàng thích biết bao được nghe và thấy một người có thể nói tới xứ Israel bằng mắt thấy tai nghe, chứ không phải do lời đồn đại! Từ nhiều tháng nay, chàng thèm muốn được như đứa em đã có cái can đảm trốn ra khỏi nhà để tham dự các buổi họp của các Thân hữu của Sion, một tổ chức mới chủ trương võ trang phòng vệ các ghetto và trở về miền Đất Thánh. Một Bilu thực sự! Nhưng không: chàng sẽ chống lại cám dỗ tới nghe này, ít nhất là ngày nào cha chàng còn chống đối với các Thân hữu của Sion.
Phong trào Bilu phát sinh trực tiếp từ một trong những thời kỳ thê thảm nhất của kiếp khốn khổ của những người Do Thái tại Nga.
Sau khi đã ban bố vài cải cách vừa rụt rè vừa quá trễ để chống lại sự xáo trộn mỗi lúc một gia tăng đáng ngại, Nga hoàng Alexandre II đã cảm thấy một điều rất dễ hiểu là muốn làm dân thôi chú trọng vào các khía cạnh đáng chê trách của chế độ và hướng về các vấn đề khác. Các cố vấn của ngài không khó khăn gì trong việc tìm ra một con dê chịu tội lý tưởng: đó là người Do Thái. Ở Nga, tính bài Do Thái, dưới hình thái dữ dội nhất, đã phát triển trên một khoảng đất phong phú những hận thù tôn giáo, mê tín dị đoan, cùng thứ hận thù mù quáng thường có của các quốc gia nghèo khổ. Sau một chiến dịch mạ lị bôi nhọ khéo léo, chính quyền Nga đã dễ dàng xúi dục lên hàng loạt pogrom làm đẫm máu trong vùng cư trú của các người Do Thái.
Nơi đâu cũng là cướp phá nhà cửa, tàn sát dân cư không có thì giờ chạy trốn – đám dân Nga cuồng nộ này chỉ giết phụ nữ Do Thái sau khi đã cưỡng hiếp họ mà thôi – tất cả với dự thỏa thuận mặc nhiên hay hợp tác tích cực của cảnh sát.
Nếu những người Do Thái còn sống sót tưởng rằng mình đã tới tận cùng của thảm cảnh thì họ đã lầm. Ngày 13 tháng 3 1881, Alexandre II bị ám sát do một quả bom của một nhà cách mạng, trong đó có một thiếu nữ Do Thái.
Đây là khởi điểm của một thời kỳ khủng bố thứ nhì.
Tân Nga hoàng Alexandre III chỉ là một trò chơi trong tay đại thần Pobiedonostsev. Ông này, còn phản động hơn vị vua nữa, đã có một kế hoạch để giải quyết vấn đề Do Thái. Với tư cách ủy viên đại diện cho hội đồng giáo phẩm tối cao, ông tin chắc sẽ được sự tán thành của giáo hội chính thống Nga về chương trình tiêu diệt Do Thái. Chương trình này rất giản dị: một phần ba sẽ bị tiêu diệt bằng các pogrom do chính quyền đề xướng và tổ chức, một phần ba bị trục xuất, một phần ba còn lại bắt cải đạo bằng võ lực cùng đe dọa.
Tuần lễ thánh năm 1881, ngày đăng quang của Alexandre III là dấu hiệu mở đầu cho đợt khủng bố tàn sát đầu tiên, tiếp theo bằng một loạt sắc lệnh cưỡng đoạt tài sản các người sống sót cùng hủy bỏ toàn diện các quyền sơ đẳng nhất của người Do Thái.
Trong cơn khiếp hãi bao trùm mọi ghetto, giữa trăm ngàn dự án không tưởng như nhau, chỉ có một nhóm ít người đã đề ra được một giải pháp hợp lý, đó là nhóm Thân hữu của Sion. Chính nhờ sự mang ra ứng dụng ý tưởng của nhóm này mà vào cuối mùa thu, bốn mươi sinh viên Do Thái trốn khỏi Vùng để đi Palestine. Có tinh thần phiêu lưu và can đảm vô bờ bến, họ đã đặt công cuộc của họ dưới danh hiệu Beth Yakov Leku Venlkha: Gia tộc của Jacob, hãy đứng dậy! Những chữ viết tắt từ cái danh xưng như một lời gào thét chiến đấu ấy đã tạo thành một tên gọi mà các bậc tiền nhân cùng hậu bối đã làm cho nổi danh: BILU.
Về được tới Palestine, những Bilu đầu tiên xây dựng một trại canh nông trong thung lũng Sharon. Họ đặt tên trại là Rishon le Zion: Kẻ đầu tiên ở Sion.
Năm sau, khi một đợt pogrom thứ hai tràn vào Vùng, nhiều nhóm khác chạy khỏi quốc gia đáng nguyền rủa ấy để lên đường về Palestine, vùng Đất Hứa. Bởi thế đến năm 1884, khoảng một nửa tá trại Bilu nghèo khổ, yếu ớt, sống bằng hy vọng hơn là bằng bánh mì, đã thành lập rải rác khắp miền Palestine.
Ngày hôm sau ngày người Bilu từ Palestine nói chuyện tại khu bộ địa phương của hội thân hữu Sion, Jossi Rabinsky đưa em ra một chỗ vắng, nói :
– Kể lại đi! Người đó như thế nào… Đã nói những gì…
Yakov ra vẻ ta đây.
– Vậy đó! Anh chưa chịu tin đã đến lúc anh tới dự một trong các buổi họp của bọn tôi sao?
Tối hôm đó lấy cớ là muốn cầu nguyện cho một người bạn mới chết, hai anh em chạy lại cửa hiệu bán nến của Hacohen. Jossi hơi sửng sốt khi thấy có những người canh gác đi đi lại lại quanh căn nhà và ngạc nhiên khi gặp biết bao khuôn mặt quen thuộc trong phòng họp. Nhưng chàng sửng sốt nhất vì bề ngoài cùng thái độ của diễn giả, Vladimir, gốc Odessa.
Vladimir không hề giống những người Do Thái ở ghetto. Anh để râu chứ không để tóc quăn, mặc một chiếc áo vét bằng da đen, quần bó sát và đi ủng, nói rất bình tĩnh và cương quyết đến lạnh lùng. Sau khi gợi lại kiếp sống trầm luân bất tận của người Do Thái tại Âu châu, anh nhấn mạnh tới tình hình thê thảm của những kẻ sống trong vùng, đã vô phương chống lại các bạo hành của một quần chúng man rợ và một chính quyền bóc lột sát nhân. Anh kết luận :
– Cho tới giờ chúng ta đã là đối tượng cho sự khinh khi và chế riễu tại tất cả các quốc gia trên thế giới. Muốn thoát khỏi thân phận này, chúng ta phải tự làm cho chúng ta có một quốc gia. Ngoài giải pháp này, chúng ta không còn cứu rỗi nào khác. Chúng ta phải xây dựng lại Nhà của Jacob!
Trên đường về nhà, Yakov để lòng nhiệt thành của mình tự do bộc lộ :
– Anh đã nghe rồi đấy, anh Jossi! Và anh đã thấy biết bao người ở đó: cả rabbin [1] Liazine cũng có mặt!
Jossi trả lời lảng tránh :
– Anh cần phải suy nghĩ đã.
Nhưng vừa nói xong, chàng đã biết là Vladimir có lý: ngoài Palestine ra, không có cách cứu rỗi nào khác cho người Do Thái.
Rabinsky đang chờ hai con về. Mặc áo ngủ, đứng trước bàn làm việc, soi sáng bằng một ngọn nến, ông nói.
– À, các con đã về! Nhờ lời cầu nguyện của các con, bạn con sẽ an nghỉ an bình!
Một lần nữa Jossi lại không thể nói dối :
– Chúng con không đi cầu nguyện cho người chết…
Simon Rabinsky giả vờ ngạc nhiên :
– À! Các con bận theo đuổi người yêu…
– Thưa bố không ạ.
– Chắc các con đến nhà thờ học kinh Talmud?
Jossi nói nhỏ gần như không nghe thấy :
– Cũng không phải đâu.
Yokov không giữ được nữa, nói thật luôn :
– Chúng con đã đến dự một buổi họp của hội thân hữu Sion.
Mọi người im lặng. Simon Rabinsky nhìn các con không tin ở mắt mình nữa. Sau cùng ông nói :
– Bố rất buồn…
Jossi nói :
– Chính vì thế chúng con không nói cho bố rõ. Chúng con không muốn làm cho bố phải buồn.
– Bố không buồn vì các con đến dự buổi họp ấy, mà buồn vì các con đã coi thường, ông bố già, không tin cậy ở bố nữa.
Yakov cãi :
– Không phải thế. Tại chúng con nghĩ rằng nếu nói ra thì bố sẽ cấm chúng con đi…
– Yakov, hãy nói cho bố nghe… có bao giờ bố đã cấm con học hỏi chưa? Ngay cả hôm con bộc lộ cái ý dị kỳ là muốn đọc Tân Ước Kinh… bố có cấm con không?
Jossi đã bình tĩnh lại. Tính tình chàng như vậy: quyết định thì chậm nhưng sau đó can đảm để bảo vệ quyết định đã có. Chàng lên tiếng :
– Chúng con sợ làm bố buồn vì chúng con biết lập trường của bố đối với hội thân hữu của Sion, đối với các tư tưởng mới nói chung. Mặc dù biết vậy, con cũng xin thưa là con hài lòng được dự buổi hội ấy. Rabbin Lipzine đã yêu cầu con gia nhập đoàn dân vệ ghetto.
Simon là :
– Rabbin Lipzine đã chối bỏ quá nhiều tập tục của chúng ta đến nỗi đôi khi bố tự hỏi không biết ông ta có còn là người Do Thái nữa không. Còn những tư tưởng mới của ông ấy à. Con tưởng bố không biết con và thằng Yakov nghĩ gì trong đầu hay sao? Đã có thời bố cũng là thanh niên, và ngay từ thời đó thiên hạ đã lải nhải những giải phóng, những bảo vệ ghetto và những gì nữa chẳng biết. Chẳng qua là hai đứa đang đến tuổi khủng hoảng mà ai trong chúng ta cũng đều phải trải qua… lúc mà con người biết địa vị mình phải giữ và cuộc đời ra sao chấp nhận như thế. Khi bố còn ít tuổi, đã còn có lần bố nghĩ tới chuyện cải đạo nữa kia! Hai con vẫn còn chưa chịu tin là bố hiểu được các tình cảm của các con sao?
Jossi sửng sốt. Bố chàng đã từng nghĩ tới chuyện cải đạo! Yakov vội vã trở lại vấn đề trước mắt :
– Tại sao chúng ta lại không có quyền tự bảo vệ chúng ta? Tại sao chính dân tộc ta lại trách chúng ta là tìm cách cải thiện thân phận của chúng ta?
Người bố nói :
– Tại vì con là Do Thái, và đã làm người Do Thái bắt con phải chấp nhận những sự áp chế.
– Chẳng hạn như là con phải chui xuống gầm giường nấp để trốn tránh bọn sát nhân phải không?
– Chưa ai dám cho rằng dễ làm người Do Thái cả. Chúng ta có mặt trên trái đất này không phải để hưởng đời sống. Thượng đế đã đặt để chúng ta ở đây để duy trì Luật của Ngài. Đó là nhiệm vụ, đó là mục đích của chúng ta.
Yakov tức giận đáp lại :
– Thế còn phần thưởng cho chúng ta!
Simon tiếp tục nói, không hề xúc động :
– Một ngày kia đấng cứu thế sẽ hiện đến để đưa chúng ta về xứ Israel. Bố nghĩ rằng Yakov Rabinsky không có quyền nghi ngờ sự khôn ngoan của Thượng đế. Ngược lại là khác, bố nghĩ rằng Yakov Rabinsky phải sống theo các luật tắc đã có ghi trong Thánh kinh.
Yakov kêu lên :
– Con không chối bỏ những luật thánh. Nhưng con chối bỏ không nhận sự khôn ngoan của những người diễn giải các luật thánh ấy. Nếu quả thực Thượng đế đã tạo chúng ta ra theo hình ảnh của Người, thì đấng cứu thế ở trong chúng ta, ở mỗi người trong chúng ta, và đấng cứu thế của con ra lệnh cho con, nhắc con hoài là con phải vươn mình dậy mà chiến đấu, hòn đá ném đi hòn chì ném lại. Đấng cứu thế của con cũng còn ra lệnh cho con phải trở về quê hương của tổ tiên chúng ta, gia nhập hội Thân hữu của Sion.
Trước các luận cứ ào ào như vậy, Simon Rabin không hề nao núng.
– Trong lịch sử của chúng ta, chúng ta đã thấy xuất hiện một số đấng cứu thế giả rồi. Và ngay lúc này đây con đang nghe theo những lời khuyến cáo của một trong những cứu thế giả ấy.
– Nhưng làm thế nào để con biết được đấng cứu thế thật?
– Vấn đề không phải là làm thế nào để Yakov Rabinsky nhận ra được đấng cứu thế, vấn đề là xét xem liệu đấng cứu thế có nhận Yakov Rabinsky hay không. Nếu kẻ mang tên Yakov bắt đầu xa dần luật thánh, nếu hắn lắng nghe những lời ẩn dụ của những kẻ tiên tri giả mạo, thì đấng cứu thế sẽ hiểu rằng Yakov thôi không còn là Do Thái nữa. Cha đề nghị với Yakov là hãy tiếp tục sống như bố nó, và như dân tộc nó.
——————————————-
[1] Rabbin: giáo sĩ của Do Thái giáo, tương đương đại khái với cha xứ của Kitô giáo.

Phần 2 – 4
– Giết tụi Do Thái!
Một viên đá ném vỡ tan cửa sổ lớp học. Vị rabbin vội vã đẩy các học trò về cầu thang dẫn xuống hầm. Ngoài đường, đàn ông đàn bà tuyệt vọng chạy đi kiếm một nơi ẩn trú, đằng sau họ hơn cả ngàn dân cosaque và sinh viên đang rượt theo. Suốt vùng bao quanh ghetto vang lên tiếng hét ngàn đời :
– Giết tụi Do Thái!
Một vụ pogrom nữa, cũng do một tên Andrev tổ chức như các vụ trước, tên giám đốc gù lưng của trường trung học Jitomir, một tay chống Do Thái điên khùng. Các học trò của hắn trà trộn với các dân cosaque, chạy ào ào trong các đường phố, đập vỡ các cửa kính, cửa sổ, kéo lê những người Do Thái mà chúng bắt được, đánh họ tàn nhẫn không thương tiếc.
Yakov và Jossi đã rời chủng viện mặc dù các lời năn nỉ của vị rabbin. Chạy theo những ngõ hẻm tối tăm nhất, vắng người nhất, hai anh em tìm cách trở về nhà để che chở các người thân. Khi hai người quẹo vào vừa tới nhà, họ va đầu với khoảng chục tên du đãng đội các mũ lưỡi trai màu: các học sinh trường trung học.
– Kìa hai tên! Bắt lấy chúng!
Yakov và Jossi quay ngoắt người chạy như thế nào để nhử tụi trẻ dữ tợn sau lưng đi xa khỏi nhà. Trong mười lăm phút, nhờ thuộc biết đường, hai anh em giữ được khoảng cách. Nhưng rồi sau cùng tụi học sinh trung học dồn được hai anh em vào một ngõ bí. Dựa lưng vào tường, thở hổn hển, mồ hôi đầm đìa, hai anh em đương đầu với các địch thủ. Đột nhiên tên đứng đầu toán học sinh tiến lên, vung một ống chì toan đập vào đầu Jossi.
Jossi đỡ được, rồi nắm lấy ngang người tên học sinh nhấc bổng hẳn lên khỏi mặt đất, quay tít hắn lên không rồi ném mạnh vào đồng bọn. Cùng lúc do Yakov lấy đá sỏi chứa đầy sẵn trong các túi, nhằm hai tên địch ném, trúng đầu cả hai, ngã lăn chiêng ra đất. Những tên còn lại co cẳng chạy không kịp thở.
Yakov và Jossi lại chạy về nhà, ùa vào cửa hiệu giầy.
– Bố! Mẹ!
Xưởng giầy đã bị phá tan tành. Hai anh em tìm ra mẹ ngồi thu hình trong một góc, gầan phát điên lên, Jossi lay mạnh bà.
– Bố đâu mẹ? Mẹ nói đi nào, mẹ!
Đột nhiên bà hét lên :
– Torah! Torah!
Cùng lúc đó cách đấy hai trăm thước, Simon Rabinsky chệnh choạng tiến ra nhà thờ đốt cháy. Ông tiến vào được tới cuối phòng, vạch các tấm màn có thêu Mười Điều Răn, ôm lấy Torah, hai cuộn kinh. Ôm chặt hai cuộn kinh ấy vào người để che chở lửa khỏi bén vào, ông ra thoát được ngoài. Bị phỏng nặng, gần ngạt thở, ông bước qua bậc thềm để rồi gục xuống bên ngoài. Ông còn đủ sức để quỳ lên…
Chừng hai chục học sinh trung học đang chờ sẵn.
– Giết chết tụi Do Thái!
Simon bò được hai hay ba thước để rồi gục xuống bùn lấy thân hình che chở cho các cuộn kinh Torah. Các gậy gỗ đập xuống vỡ sọ ông, các giày đinh đá nát mặt ông. Trước khi chìm vào cõi hư vô, ông kêu lên :
– Nghe đây, Israel. Vĩnh cữu là Thượng đế của người… Vĩnh cữu là duy nhất…
Đúng một tháng sau ngày Simon Rabinsky chết. Yakov dậy vào lúc nửa đêm. Rón rén cẩn thận để không làm anh thức giấc, chàng mặc quần áo, nhét vào thắt lưng một con dao mài bén nhọn – con dao mà bố chàng thường dùng để cắt da làm giày – rồi ra khỏi nhà nhẹ bước tiến về đô thành Ki-tô giáo.
Như có linh cảm báo hiệu, Jossi tỉnh giấc vài phút sau đó. Nhận thấy Yakov vắng mặt, Jossi chỉ kịp mặc quần áo rồi vội vã ra khỏi nhà. Tới đường, chàng chạy. Chàng biết em mình đã đi đâu.
Lúc 4 giờ sáng, Yakov gõ cửa nhà Andrev. Sau khi gõ nhiều tiếng, chàng lùi lại và chờ đợi. Chính lão gù ra mở cửa. Yakov chồm tới, đâm dao vào ngực lão. Viên giám đốc trường trung học Jitomir kêu lên một tiếng ngắn, gục xuống chết.
Hối hả chạy tới, Jossi thấy em đang nghiêng người trên xác chết, như bị mê hoặc. Chàng nắm lấy tay Yakov, lôi đi. Suốt cả ngày hôm đó và cả đêm sau, hai người trốn trong hầm nhà rabbin Lipzine. Tin giết người đã lan khắp thành phố. Lo âu, các kỳ mục họp lại để tìm một cách quyết định.
Lúc rạng đông, rabbin Lipzine tụt qua cửa hầm xuống.
– Chúng tôi có nhiều lý do để e rằng cảnh sát biết danh tính hai con. Hình như một học sinh lưu trú của Andrev đã trông thấy một anh chàng khổng lồ tóc hung. Từ đó đến chỗ chúng nghi ngờ con, Jossi…
Jossi cắn môi. Với bất cứ giá nào chàng cũng không thú thực là ra chàng đến đó chỉ cốt định ngăn ngừa vụ án mạng khỏi xảy ra mà thôi. Còn Yakov, chàng không hề hối hận chút nào, lầu nhầu :
– Nếu phải làm lại, con sẵn sàng ngay.
Vị rabbin nói :
– Chúng tôi hiểu tại sao con lại làm thế, nhưng không thể tha thứ cho con được. Vụ ám sát này dám làm phát động ra một vụ pogrom mới. Một mặt khác, không hề có công lý cho một người Do Thái trước các tòa án của Nga hoàng. Nói tóm tắt, chúng tôi đã có một quyết định mà hai con phải tuân theo không bàn cãi.
Jossi nói nhỏ :
– Xin vâng.
– Các con đi cắt những lọn tóc quăn đi và ăn mặc như những người Ki-tô giáo. Chúng ta sẽ cho các con đủ thực phẩm và tiền bạc để sống một tuần. Các con phải rời Jitomir ngay lập tức, không bao giờ được nghĩ đến việc trở về nữa.
Vì thế, năm 1884 ấy, Jossi Rabinsky mười sáu tuổi và em là Yakov, mới mười bốn tuổi, đã trở thành những kẻ đào tẩu. Đi vào ban đêm, ban ngày ẩn trốn, họ mất một tuần mới băng qua được quãng đường một trăm năm chục cây số dẫn tới tỉnh Loubny. Họ lẩn được vào ghetto – để được biết rằng danh tiếng đáng sợ của hai anh em đã lan tới đây rồi. Các trưởng lão của cộng đồng Do Thái ở Loubny trao cho những gì cần thiết để sống thêm một tuần nữa rồi khẩn khoản yêu cầu hai anh em hãy lại đi. Lần này hai anh em tiến về Kharkov cách đó ba trăm cây số, hy vọng rằng khoảng cách sẽ làm giảm bớt hăng hái của cơ quan cảnh sát. Một hy vọng sớm tiêu tan: vụ giết Andrev đã gây ra tiếng vang hết sức lớn, những làng nhỏ bé nhất cũng được báo động và từ đầu này đến đầu kia Vùng Cư trú, việc săn đuổi hai anh em đã mang vẻ như là một công cuộc của thập tự quân trên bình diện quốc gia. Đến được Kharkov sau hai mươi đêm đi ngày nấp trong bờ bụi, hai anh em lại phải nấp trong căn hầm lạnh buốt của đại chủng viện Do Thái. Chỉ có rabbin và vài kỳ lão là biết sự hiện diện của hai người thôi.
Họ sống ở đó hai tuần. Rồi một buổi tối, vị rabbin đến kiếm và nói :
– Ngay cả ở đây nữa các con cũng không an toàn. Chúng ta chẳng nên lừa dối chính mình làm gì: chúng chắc chắn sẽ tìm ra các con, chỉ có vấn đề thời gian thôi. Chưa chi công an cảnh sát đã la cà quanh đây và đặt ra đủ loại câu hỏi. Vậy mà mùa đông sắp tới rồi, không thể nào còn đi được trên các con đường giá lạnh nữa. Bởi thế chúng ta thấy chỉ còn một lối thoát duy nhất: đưa các con đến trú ngụ cho qua đông sang xuân ở nhà một trong vài gia đình Do Thái đã cải đạo trong vùng này và đang làm nghề nông.
Jossi lắc đầu :
– Thưa giáo sĩ, chúng con hết sức đội ơn những gì các vị huynh trưởng đã làm cho chúng con, nhưng hai anh em đã có một dự định.
– Vậy hả? Dự định nào?
Yakov nói :
– Chúng con đi Palestine.
Vị rabbin có vẻ sửng sốt :
– Đi Palestine? Con định về xứ đó bằng cách nào đây?
– Chúng con đã vạch một lộ trình. Với sự giúp đỡ của Thượng đế….
– Chắc chắn Thượng đế sẽ giúp các con, nhưng không nên đòi hỏi ngài làm một phép mầu. Từ đây đến Odessa gần năm trăm cây số trong tuyết và lạnh. Và cứ cho rằng các con tới được Odessa đi, các con cũng không thể đáp tàu được vì không có giấy tờ. Không tàu nào dám nhận các con đâu.
– Chúng con sẽ không qua Odessa. Chúng con định đi bộ. Moise đã đi bộ trong bốn mươi năm: chúng con cũng phải làm như thế.
Vị rabbin suýt nữa phật lòng :
– Này người bạn trẻ, tôi không cần các anh nhắc tôi là Moise đã đi bộ trong bốn mươi năm. Nhưng lối so sánh táo bạo của anh vẫn chưa cắt nghĩa cho tôi hiểu làm cách nào các anh đi bộ được về Palestine.
– Kế hoạch của chúng con như sau: chúng con sẽ đi thẳng xuống phía nam, băng qua xứ Georgie ra khỏi Vùng. Sau đó chúng con sẽ đi qua xứ Caucase để sang Thỗ Nhĩ Kỳ.
Vị rabbin giơ hai tay lên trời :
– Điên rồ! Không thể thực hiện được! Các con quả thực nghĩ tới đi bộ ba ngàn cây số giữa mùa đông, leo qua những ngọn núi cao năm ngàn thước, không một chút giấy tờ, qua những vùng hoàn toàn chưa bao giờ biết, và với cảnh sát đuổi sau lưng sao? Chuyện này không đứng vững được đâu, các con! Các con mới vừa qua cái tuổi mặc quần cụt bao lâu đâu?
Yakov tiến lên một bước và nhìn vị rabbin bằng con mắt đầy cuồng nhiệt, cất tiếng đọc :
– “Con đừng sợ hãi gì cả vì ta ở với con. Ta sẽ cho gieo mầm của con về phía tây về phía đông, ta sẽ truyền cho miền bắc giải phóng con, truyền cho miền nam không được giữ con, để sau cùng ta đưa các con dân của ta ở tận các miền xa, ở tận cùng thế giới trở về”.

Ngày hôm sau, lúc trời tối, hai anh em Rabinsky, những kẻ đào tẩu bị truy tố vì tội sát nhân, chạy trốn khỏi Khartov để bắt đầu cuộc trường hành về miền nam.
Đêm rồi đêm, trong giá lạnh mỗi ngay một tàn bạo hơn, họ len lỏi tìm lối đi giữa các đám tuyết gió vun cao tới ngang thắt lưng, người cúi gập làm đôi để chống lại gió thổi mạnh. Bụng trống không, họ sống bằng những gì ăn cắp được trong các chuồng gà vịt và các nông trại. Ngay khi mặt trời mọc, họ nấp kín trong rừng già.
Suốt trong cuộc trường hành ác mộng này, chính Yakov đã không ngừng khơi dậy lòng can trường nơi người anh, thúc đẩy anh tiến thêm một bước, một bước nữa, lại một bước nữa, ngay cả khi hai người đã kiệt lực. Ngược lại, chính Jossi, nhờ thân xác khổng lồ, đã bù trừ cho sự yếu đuối thể chất của người em. Nhiều đêm, Jossi đã phải vác Yakov trên lưng trong ba, bốn, năm giờ liền vì chân người em sưng rớm máu. Nhiều ngày, Jossi đi phải nằm ôm lấy Yakov, lấy sức nóng của thân thể mình sưởi cho em.
Nhưng họ vẫn tiếp tục cuộc hành trình về phía nam, trong tuyết và băng giá, chệnh choạng vì mệt, say lên vì đói, từng cây số lại từng cây số, một tuần lễ rồi lại một tuần lễ. Trong những ngày đầu xuân, hai anh em tới Rostov, và vừa đến ghetto, hai người gục xuống.
Vị rabbin địa phương tiếp đã họ. Mọi người săn sóc, nuôi nấng, cho họ thực phẩm và quần áo mới. Họ bắt buộc phải nghỉ ngơi nhiều tuần trước khi nghĩ tới chuyện lại ra đi.
Bây giờ, gần đến mùa hè, họ không còn phải chống lại với các yếu tố thiên nhiên thù nghịch nữa. Nhưng ngược lại, họ phải thận trọng gấp đôi: đã rời khỏi Vùng Cư trú của người Do Thái, họ không còn nương tựa được ở các cộng đồng từ trước tới giờ vẫn cho họ trú ẩn cùng trợ giúp. Đi dọc theo duyên hải Hắc hải, mỗi ngày họ càng tiến sâu vào xứ Georgie. Để có ăn, họ ăn cắp thực phẩm trong cánh đồng, ban ngày cẩn thận ẩn trú.
Với mùa đông trở lại, hai anh em bắt buộc phải có một quyết định quan trọng. Họ phải ẩn náu ở Georgie cho tới khi mùa đông qua, thử tìm cách vượt rặng Caucase, hay đoạt lấy một con tàu để thử vượt qua Hắc hải?
Cả ba giải pháp ấy đều bao hàm các nguy hiểm lớn lao. Trước hết họ gạt bỏ giải pháp đường biển: cả hai anh em chưa ai đặt chân lên một chiếc thuyền bao giờ. Mặc dù việc băng qua Caucase giữa mùa đông cũng là công cuộc điên cuồng không kém, nhưng lòng hối hả muốn rời bỏ đất Nga làm cho họ chọn liều giải pháp này.
Tới Stavropol, dưới chân các rặng hoành sơn đầu tiên, họ làm một loạt đánh cắp để trang bị từ đầu đến chân và các thực phẩm dự trữ. Rồi họ bắt đầu leo núi, hướng về phía Arménie. Họ phải chạy vắt chân lên cổ bởi vì cảnh sát rượt theo sát.
May mắn thay là những thử thách của mùa đông trước đã làm thân thể họ cứng cáp lên nhiều. Mặc dù không có đường đi, ở cao độ và cái lạnh ghê người, họ tiếp tục tiến, mới đầu từ thung lũng này sang thung lũng khác, rồi từ đèo này sang đèo khác, cho tới giới hạn sau cùng của đỉnh núi. Khi xuống núi, sức lực hao mòn dần dần, đến nỗi họ đi những cây số sau cùng trong một trạng thái hầu như không còn biết gì nữa.
Vào một ngày nắng ấm của mùa xuân, sau cùng hai anh em được sống giây phút không sao quen được của hơi thở tự do đầu tiên: họ đã rời “đất mẹ”, miền đất với họ bao giờ cũng chỉ là “mẹ ghẻ”. Khi vượt biên thùy Thổ Nhĩ Kỳ, Yakov quay lại “nhổ” vào đất Nga.
Giải thoát khỏi mối lo cảnh sát, họ không vì thế mà đã hết vất vả. Vùng này là miền núi, xứ sở khác hẳn những miền họ đã từng biết và không hề có tiền bạc giấy tờ. Họ mất hai tháng mới tới được rặng núi Ararat, nơi xưa kia con tàu của Noé đã chạm xuống đất sau cơn đại hồng thủy. Đi vòng quanh núi, họ vẫn tiếp tục tiến xa: hơn về phương nam. Đến mỗi làng, họ đều đặt câu hỏi
– Ở đây có người Do Thái không?
Đôi khi, có người Do Thái thật – những nông dân vừa ngu dốt vừa mê tín như những người Thổ mà họ cùng chung sống, nhưng vẫn còn giữ tục lệ ngày sabbat cùng các ngày lễ chính như kinh Torah đã ấn định. Khi đó, hai anh em Rabinsky chỉ cần tuyên bố ý định về Palestine, là được đón tiếp nồng hậu. Chưa một lần nào các người Do Thái ấy từ chối đón tiếp họ.
Hai năm như vậy qua đi. Ngày lại ngày, họ tiến bước, gậm nhấm dần khoảng cách giữa họ và nơi đến sau cùng, chỉ ngừng lại khi đã kiệt lực hay vì bắt buộc phải làm việc ngoài cánh đồng để kiếm ăn.
– Ở đây có người Do Thái không?
Họ rời Thổ Nhĩ Kỳ để tiến vào tỉnh Syrie. Ở Alep, lần đầu tiên họ tiếp xúc với thế giới Ả Rập: thứ tranh tối tranh sáng của tiệm tạp hóa Ả Rập, các phố xá đầy phân người, tiếng ca của vị muezin từ các tháp cầu nguyện…
Họ vẫn tiếp tục đi và tiếp tục đi, để rồi tiến vào vùng trời xanh trong của Địa trung hải, trong ánh sáng tuyệt vời bôi xóa rất nhanh kỷ niệm về những cơn gió lạnh buốt trên các cánh đồng cỏ mênh mông, trên các núi non. Ăn mặc rách rưới giống như những dân Ả Rập, họ đi dọc bờ biển Tây Á, vượt qua lãnh thổ Liban, băng sa mạc man dại giữa Tripoli và Beyrouth. Chậm chạp và đều đặn, họ tiến gần về miền Đất Hứa.
Tính cho tới ngày họ dừng bước trên một ngọn đồi dốc ngược năm 1888 ấy, là bốn mươi tháng sau khi chạy trốn khỏi ghetto ở Jitomir. Jossi Rabinsky, hai mươi tuổi, một bộ râu đỏ bao quanh khuôn mặt, một thước chín mươi đường gân và bắp thịt. Yakov Rabinsky, mặt nghiêm trọng, mắt đam mê cuồng nhiệt.
Dưới chân họ, chạy dài thung lũng Houleh ở phía bắc xứ Galilée… Galilée… Palestine… hai anh em đã đi tới đích cuộc trường hành, Jossi ngồi trên một tảng đá, hai tay ôm lấy mặt khóc nức nở.
Giữa quả đồi và đỉnh đầy tuyết phủ của ngọn Hermon, thung lũng nằm dài với chiếc hồ và các đầm lầy chạy dọc theo. Phía bên phải, một làng Ả Rập nằm như tổ chim ở một chỗ trũng của các ngọn đồi thấp hơn. Jossi xúc động. Đất Israel đẹp làm sao! Một ngày kia chàng sẽ trở lại nơi này, nơi mà chàng đã khám phá ra lần đầu tiên vẻ huy hoàng của xứ sở chàng.
Sáng ngày hôm sau hai người đi xuống, tiến về phía làng Ả Rập. Dưới bầu trời tươi sáng, các ngôi nhà nhỏ quét vôi trắng có vẻ huy hoàng, với những nét thanh thanh nằm giữa các cánh đồng và vườn trồng cây như khảm vào các sườn đồi. Nhưng càng lại gần tất cả vẻ đẹp ấy, từ từ biến mất, để hiện ra một mùi hôi thối ghê khiếp. Trên đường duy nhất trong làng, một con đường đất đầy những rác rưởi, từng đám ruồi ào ra tấn công hai anh em. Một con chó ghẻ đang sục sạo trong một hố lộ thiên dùng làm cống để tìm một chút hơi mát. Những người đàn bà che mặt chạy vội vào các khung cửa bẩn thỉu, nhỏ bé, trong đó con người sống chung với gà, lừa và dê.
Hai anh em dừng bước ở giếng làng. Sự hiện diện của họ làm ngưng bặt tiếng cười nói của các thiếu nữ đang lo giặt giũ hay đội trên đầu những chiếc bình nặng hình dáng như các bình thời xưa. Jossi hỏi :
– Chúng tôi xin miếng nước được không?
Không một thiếu nữ nào dám trả lời. Bối rối, hai anh em kéo lấy một thùng nước, té vào mặt, đổ đầy bình chứa của mình rồi vội vã ra đi.
Cách một quãng nữa, một căn nhà lớn cũ kỹ được dùng làm quán cà phê maure [1]. Nhiều người đàn ông lờ đờ đang ngồi hay nằm dài luôn ra đất, trong một không khí dầy dặc mùi cà phê lẫn với mùi khói thuốc lá hay khói hachish [2]. Jossi hỏi :
– Vị nào vui lòng chỉ đường cho chúng tôi không?
Tại đây nữa cũng không ai trả lời. Sau chừng vài phút, một người Ả Rập đứng dậy, gật đầu ra dấu mời hai người đi theo. Hắn đưa hai anh em ra khỏi làng, đến tận lòng một con suối. Bên kia bờ là một giáo đường Hồi giáo nhỏ có tháp cầu nguyện vươn cao. Hai anh em được đưa vào một ngôi nhà nhỏ xinh xắn bằng đá đẻo, nằm dưới bóng mát của một tàn cây, bên cạnh một giáo đường, đối diện là một căn nhà khác hình chữ nhật. Một căn phòng khá rộng, khá mát mẽ dễ chịu nhờ những bức tường dầy và cao có đục vài ba cửa sổ. Trên các ghế dài chạy dọc tường, có các gối nhỏ màu tươi. Hai bộ vũ khí Ả Rập và một vài bức chân dung thô sơ là những vật trang trí duy nhất cho căn phòng.
Sau một khoảng thời gian chờ đợi ngắn, họ thấy một người chừng hai mươi lăm tuổi đến, mặc một chiếc Burnos dài kẻ sọc và đội một chiếc mũ chụp trắng có bao một dải băng đen. Dáng điệu tự tin chứng tỏ là một nhân vật quan trọng.
– Tên tôi là Kammal. Tôi là mouktar (xã trưởng) của làng Abou Yeshan.
Ông vỗ tay. Nhiều thiếu niên, có lẽ là các em trai, mang cà phê và trái cây tới, trong khi các kỳ mục trong làng cũng lần lượt tới.
Trước sự ngạc nhiên của hai anh em, Kammal biết nói bập bẹ tiếng hébreu. Ông cắt nghĩa :
– Theo một truyền thuyết, Josué đã được chôn ở chỗ này là làng của chúng tôi. Chắc hai vị không biết Josué, tướng chỉ huy các dân cổ Do Thái, cũng là một trong những vị đại tiên tri của Hồi giáo.
Sau đó ông bắt đầu tìm hiểu xem hai vị khách là ai cùng mục đích của hành trình đến nơi này. Hẳn là một người Á đông trí thức, ông không đặt ra những câu trực tiếp. Sau khi đã đưa ra nhiều giả thuyết mơ hồ, ông giả đò cho rằng hai vị khách đã lạc đường: đây là lần đầu tiên thấy có người Do Thái trong thung lũng Houleb.
Khi được biết hai anh em đi tìm cộng đồng Do Thái gần nhất, ông có vẻ an lòng: hiển nhiên là ông sợ rằng hai anh em tới đây kiếm mua đất và lập nghiệp tại nơi này. Rời bỏ sự gìn giữ nghi ngờ, ông nói thật là không những ông chỉ là mouktar còn là sở hữu chủ tất cả đất đai trong làng, ông là người lãnh đạo tinh thần của cộng đồng và cũng là kẻ duy nhất biết đọc và biết viết.
Bị một cảm tình tự nhiên thúc đẩy, Jossi thuật lại cuộc chạy trốn của hai em khỏi nước Nga băng qua xứ Caucase, cùng trình bày ước vọng muốn được sống tại miền Đất Thánh. Sau khi chén cà phê sau cùng đã cạn từ lâu, trái cây cuối cùng đã ăn xong, hai anh em đứng dậy để xin cáo từ chủ nhân. Kammal nói :
– Quý vị sẽ tìm thấy các đồng bào của quý vị cách đây ba mươi cây số về phía nam. Trại ấy được gọi là “Rosh Pinna”, nằm giữa đường đi từ hồ Houleh tới biển Galilée, biển mà những người Ki-tô giáo gọi là hồ Tibériade. Dọc đường, quý vị sẽ đi qua một cái tel lớn, một vùng đất nhô cao bên dưới chôn vùi thành phố cổ Hazor mà Josué đã chiếm được của dân Cananéen… Cầu Thượng đế che chở cho quý vị!

Hai anh em đến trại Rosh Pinna vào lúc trời đổ tối, gây ra một xúc động mạnh cho người trong trại. Được đưa vào một căn nhà lớn dùng làm phòng họp công cộng, họ bị hỏi hết câu này đến câu khác. Nhưng hai anh em đã rời bỏ Jitomir từ bốn mươi tháng rồi, họ chỉ có thể trả lời bằng những vụ pogrom mở màn từ 1881 chưa ngừng tiếp diễn.
Vừa nói hai anh em vừa cố giấu các buồn thảm của mình. Quả thực Rosh Pinna thất vọng ê chề. Đáng lẽ ra là các trại thịnh vượng như đã tưởng tượng, hai anh em chỉ thấy một ngôi làng khốn khổ gồm vài chục người Do Thái sống lùi xùi trong các điều kiện hầu như đáng thương, cũng như những dân Ả Rập ở Abou Yesha. Một trong những người Bilu nhận xét :
– Đôi khi tôi nghĩ rằng chúng tôi ở lại Nga có lẽ lại hơn. Ít nhất trong các ghetto, chúng ta sống với nhau, có sách vở, có thể bàn luận với bạn bè, và có đàn bà. Ở đây hoàn toàn không có những điều đó. Hoàn toàn là không.
Jossi nói :
– Tôi không hiểu. Tất cả những gì mà thiên hạ đã kể ở hội Thân hữu của Sion…
Người Bilu đó cười khẩy :
– Hẳn là thế rồi. Chúng tôi cũng thế, chúng tôi cũng đều đầy hy vọng và lý tưởng khi tới đây. Nhưng cái xứ này sẽ làm chúng ta mất hết ảo tưởng ngay. Các anh thấy rồi chứ? Xứ này bị tàn phá, mất hết chất dinh dưỡng, bị hủy hoại đến nỗi không còn cây gì có thể mọc lên nổi nữa. Và chút ít gì chúng tôi rút được từ đất cát ra đều bị tụi Bédouin ăn cắp ngay, và những gì tụi này quên không mang theo, thì tụi Thổ lại tới vét sạch. Ở địa vị, ở tuổi các anh, tôi sẽ đi thẳng ra Jaffa để lên chiếc tàu đầu tiên đi Mỹ châu.
Một người khác hùa theo :
– Tôi cũng sẽ làm thế. Ở đây, chúng tôi sống được là nhờ sự bố thí phước thiện, không có lòng hảo tâm của các họ Rothschild, Hirsch, Schuman [3], chúng tôi chắc sẽ chết đói.
Mất tinh thần, phân vân, hai anh em Rabinsky sáng hôm sau lại lên đường đi Safed, một trong bốn thành phố thánh của Do Thái giáo. Nằm trên đỉnh một quả đồi đẹp hình trụ, Safed chế ngự lối vào thung lũng Houleh. Jossi, hy vọng sẽ tìm thấy an ủi ở nơi này: mọi người đã nói với chàng là Safed có từ ba bốn thế hệ rồi, một cộng đồng Do Thái rất sùng đạo, để cả đời vào việc nghiên cứu Cabale, bản tuyển văn chép những lời diễn giải thần bí về Thánh Kinh. Nhưng Safed chỉ là một sự nhắc lại đau đớn hơn nữa nỗi thất vọng đã có ở Aosh Pinna: một vài trăm người cao tuổi, sống bằng của bố thí, quả bị thu hút vào những cuộc thảo luận vô ích để còn có thể lo tới việc làm phục sinh Nhà của Jacob. Một thành phố ngủ im, cô lập với thế gian, nghèo đói kinh khiếp.
Họ chỉ nghĩ có một ngày trước khi trèo lên ngọn Canaan. Mặc dù quang cảnh tuyệt vời nhìn từ đỉnh núi, Yakov mỗi lúc càng để niềm chua chát của mình tự nhiên bộc lộ. Trải qua bao nhiêu khổ đau, vượt qua bao nhiêu thử thách ngoài sức người, để rồi sau cùng tấp vào cái xứ khốn khổ này! Jossi trách em :
– Không nên ngã lòng như thế. Chú đừng quên là ngày mai chúng ta sẽ lên đường đi Jérusalem.
Jérusalem! Thành phố yêu dấu, kinh đô của David và của Salomon… Cái tên gọi thần thánh này làm Yakov lạc quan trở lại.
Nhưng than ôi, không lạc quan lâu! Càng tiến xuống phía nam, ngay cả đến Jossi cũng mất tin tưởng. Từ các bờ hồ Tibériade đến những cánh đồng mà xưa kia Saladin người Kurde đã chống lại các Thập tự quân, miền Đất Hứa chỉ là một chuỗi dài những đầm lầy hôi thối và cát khô cằn cỗi. Một ngàn năm đô hộ của Thổ và Ả Rập đã lột sạch các của cải tài sản miền này, đến độ đất đai trơ trụi mệt nhoài.
Hai anh em chỉ tìm lại hăng hái của mình ngày mà trên một ngọn đồi miền Judée, họ nhìn thấy điểm tới sau cùng của họ: Jérusalem! Trong khoảng một thời gian ngắn, những năm thiếu thốn và hiểm nguy xóa nhòa hết. Băng qua trên sườn đá sỏi, họ chạy qua Cửa Damas vào đô thị cổ có các tường thành bao quanh, họ đi sâu vào các đường hẻm ngoằn nghoèo đầy những cửa hàng bách hóa để đến giáo đường vĩ đại Hourva. Jossi nói nhỏ :
– Nếu bố chúng ta có mặt được ở đây với hai ta…
Yakov lên tiếng đọc :
– “Tay tôi sẽ mất khéo léo nếu ngày nào tôi quên Jérusalem…”
Từ giáo đường này, họ tiếp tục đi về chỗ giáo đường Hồi giáo Omar, nơi còn di tích duy nhất của đền Salomon là Bức Tường Than Khóc. Chỉ sau khi đã cầu nguyện ở nơi thành kính nhất này, hai anh em mới nghĩ tới việc kêu gọi lòng hảo tâm của những người Do Thái trong đô thị.
Lẽ ra họ chẳng nên mất công như vậy. Cộng đồng Jérusalem gồm toàn các Chasidim, các siêu chính thống Do Thái cuồng tín cắt nghĩa các lời dạy trong kinh thánh một cách chật hẹp và nghiêm khắc đến nỗi họ sống cuộc đời khép kín, không tiếp xúc với đời sống thực tại. Ngay cả ở bên Nga, các tín đồ phái này cũng sống cách biệt với các dân Do Thái khác trong ghetto.
Lần đầu tiên kể từ khi rời Jitomir, Yakov thấy một cánh cửa nhà Do Thái khép kín lại trước mắt họ. Các Chasidim của Jérusalem không hề cảm tình với các Bilu vì họ sợ các ý tưởng phạm thượng của các Thân hữu của Sion.
Bị coi là những kẻ lạ mặt xâm nhập ở ngay trên chính đất nước mình, hai anh em lại ra đi, hướng về Jaffa. Đây là một hải cảng rất cổ thường được xử dụng từ thời dân Phénicien cho tới giờ, cũng tỏ ra không khác gì Beyrouth, Alep hay Tripoli: cũng bẩn thỉu dơ dáy như thế, cũng con đường nhỏ hẹp, cũng các cảnh cũ kỹ hoang tàn. Nhưng dầu sao ở các vùng phụ cận, có một số cộng đồng Do Thái nhỏ, và ngay trong hải cảng có nhiều cơ sở thương mại Do Thái cùng một sở nhập nội. Chính qua sở này, Jossi và Yakov biết rõ đầu đuôi mọi sự.
Một câu chuyện não lòng! Tổng cộng trước sau chỉ có chừng năm ngàn Do Thái trong trấn Palestine thuộc đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ. Hơn nữa đa số những người này lại là (các triết gia) thu hình trong việc nghiên cứu kinh thánh và cầu nguyện, tập trung trong bốn thành phố thánh Safed, Jérusalem, Nébron và Tibériade. Các nông trại – chưa quá một chục – đều nghèo khổ, chỉ thoát được đi cái đói nhờ ở các trợ cấp của vài nhà hảo tâm tỷ phú nào đó. Lý tưởng ban đầu của các Bilu đã không chống trả được mấy với thử thách của thực tại. Tưởng tượng với sự phục sinh Nhà của Jacob khi ta còn ở trong một căn hầm thuộc Vùng là một chuyện – đối diện với sự đổ nát hoang tàn của một quốc gia bị người và thiên nhiên hủy hoại lại một chuyện khác. Hơn nữa, các Bilu không có một kinh nghiệm nào trong địa hạt canh nông. Các chuyên viên do các nhà hảo tâm Âu châu gửi về cho lại chỉ thỏa mãn với giải pháp dễ dàng nhất: xử dụng nhân công Ả Rập, hết sức rẻ, và giới hạn xuất cảng: ô liu, nho, bưởi, bòng. Đến nỗi rằng trong các nhóm Do Thái lập nghiệp ở xứ này, không có người Do Thái nào tự mình làm việc – không rờ đến cái cầy hay cái cuốc – và không nơi nào họ chịu thử nỗ lực đạt tới mức sản xuất quân bình.
Tình hình lại còn thê thảm hơn nữa là các người Ả Rập cùng các chủ của họ, người Thổ, [4] ăn cắp và tước đoạt tối đa tài sản của người Do Thái. Các tay ăn cướp lang thang người Bédouin coi những người Do Thái nhập nội như là các “con của thần chết” lý do vì họ không chịu tự bảo vệ bằng vũ khí. Chính quyền Thổ đánh thuế hoa mầu hết sức cao, và ngoài ra con tìm trăm phương ngàn kế cấm đoán đủ thứ.
Trong bức tranh tình hình thê thảm này, chỉ có một tia ánh sáng hy vọng duy nhất: sự hiện diện trong vùng Jaffa vài trăm người Do Thái trẻ, tương tự như hai anh em Rabinsky, đang cố gắng duy trì tinh thần của phong trào Bilu. Hết đêm nọ tới đêm kia, các chàng trai trẻ này thảo luận với nhau trong các quán cà phê Ả Rập. Nếu sự phục hồi Palestine hầu như là một công cuộc không thể làm được, ta vẫn còn có thể thực hiện được dần dần nhưng với một điều kiện duy nhất: một đợt đông đảo các người trẻ, khỏe mạnh, có tinh thần cầu tiến. Jossi ước đoán rằng đợt người nhập nội ấy sắp có trong một tương lai gần: tại Nga, các vụ Pogrom xảy ra mỗi lúc mỗi nhiều, càng ngày càng dữ dội, sát nhân hơn, và trong tất cả mọi ghetto trong vùng, giới trẻ đang xáo động. Con trai và con gái thuộc giới trẻ bắt đầu hiểu rõ rằng có những vấn đề mà cả kinh thánh lẫn kinh Talmud đều không thể giải quyết được.

Ngay khi tới Jaffa, Jossi đã viết thư cho rabbin Lipzine. Sau một năm mới có thư trả lời: mẹ của hai anh em đã chết vì buồn phiền.
Trong bốn hay năm năm sau đó, Yakov và Jossi tập làm người. Lúc thì họ làm việc như phu khuân hàng ở cảng Jaffa, lúc làm việc trong các nông trại Do Thái quanh vùng. Khi cộng đồng Jérusalem đã đông tràn ra ngoài, các tường thành của đô thị cổ, hai anh em đi làm thợ nề. Sống từng ngày một, hết làm nghề này đổi qua nghề khác, họ dần dần mất tiếp xúc với truyền thống thuần túy cùng tập tục sâu đậm tôn giáo của đời sống trong các ghetto. Đến nỗi rằng họ trở thành mẫu người điển hình cho một giòng giống Do Thái mới, trẻ, khỏe mạnh, hoạt động, ý thức mình được hưởng một thứ tự do mà không một người Do Thái nào trong Vùng được biết tới. Tuy thế họ còn lâu mới hài lòng: họ mơ tưởng đến một mục đích mà họ đã từng chiến đấu, và cũng mơ tưởng đến một liên hệ thực sự với những đồng bào còn ở lại bên Âu châu.
1891, 1892, 1893 – một số di dân nhập nội, một con số ít ỏi, nhưng kẻ cùng khốn chỉ có làm dài thêm danh sách phước thiện của nam tước Rothchild, nam tước Thirsch và của nhà tỷ phú Thụy Sĩ Schuman.
Yakov và Jossi không thể biết được rằng dòng đời của họ sắp sửa đổi theo một chiều nhất định và dứt khoát. Trong một phần đất khác của thế giới, các biến cố thê thảm và các nỗ lực bướng bỉnh đã đang nhào nặn số mệnh của quốc gia Do Thái tương lai.
————————————-
[1] Maure: một sắc dân Ả Rập.
[2] Hachish: một thứ ma túy tương tự như cần sa ở Việt Nam.
[3] Những dòng họ Do Thái tài phiệt rất giàu ở Âu và Mỹ.
[4] Trong thời kỳ này, Palestine là một thuộc địa của Thỗ Nhĩ Kỳ.

Phần 2 – 5
Tại Pháp, các vụ bạo hành chống Do Thái thời Trung cổ từ lâu rồi chỉ còn là một hồi ức lịch sử. Cuộc Cách Mạng và bộ Luật Nã Phá Luân đã làm cho các người Do Thái Pháp trở thành các công dân hoàn toàn bình đẳng với các công dân Pháp trong mọi lãnh vực. Bây giờ, vào cuối thế kỷ XIX, từ niệm thù hận cổ xưa, chỉ còn một thứ bài Do Thái mơ hồ về phương diện xã hội, khó nhận biết, và hơn nữa, chỉ xảy ra giới hạn trong một số thành phần của quốc gia.
Đột nhiên, năm 1893, xảy ra vụ Dreyfus [1]. Và đây là lần đầu tiên từ bao nhiêu năm rồi, mọi người mới nghe thấy một đám đông khích động kêu lên tiếng hét thê thảm cổ xưa: “Hãy giết chết tụi Do Thái!”.
Trong những người mà tiếng hét trên làm rùng mình có ký giả thường trực của một trong những nhật báo thời danh, tờ Neue Freie Presse ở thành Vienne. Nếu ký giả đó, Theodor Herzl là Do Thái, thì cho tới giờ ông cũng ít để ý tới sự kiện ấy. Gốc Hung, được nuôi dạy ở Vienne và được Ba Lê chấp nhận làm người của mình, ông càng tin ở sự đồng hóa toàn diện những người Do Thái khi thấy chính mình cũng là một thí dụ rõ ràng. Là một người viết tiểu luận giỏi, viết kịch khá và cũng là ký giả có tiếng tăm, Herzl chú ý đến công việc của mình trước hết, sau đó chú trọng tới phụ nữ xinh đẹp, hết sức ít phụ thuộc vào tôn giáo cùng các đồng bào của mình.
Vừa vì nghề nghiệp đòi hỏi vừa vì tò mò mà ông tới dự kiến vào tháng giêng năm 1895 lễ giáng chức lột lon Dreyfus tổ chức trong vũ đình trường của Trường Võ bị. Trước khi bước chân qua cổng quân trường, chắc chắn ông không thể nghĩ mình sắp sống trong giây phút quyết định cả cuộc đời. Dầu vậy, khi nghe Dreyfus lên tuyệt vọng: “Tôi vô tội!” và đám đông hét lên tiếng kêu ghê khiếp: “Hãy giết tụi Do Thái!” ông biết là mình sẽ chàng bao giờ còn tìm thấy bình an trong tâm hồn nữa.
Trở về nhà, Theodor Herzl suy nghĩ. Nếu sự bài Do Thái dữ dội có thể đột nhiên bộc lộ trong một xứ vừa tự do, vừa khoan dung đến như nước Pháp, thì liệu có phải từ đó suy ra rằng vấn đề bài Do Thái là muôn thủa, hết thuốc chữa chăng? Ngoại trừ… cứ lật đi lật lại vấn đề mà nghĩ hoài, sau cùng Herzl ngừng lại ở giải pháp mà hàng ngàn người Do Thái trong tất cả các quốc gia khác trên thế giới đã nghĩ tới: duy chỉ có sự phục hồi quốc gia Do Thái mới có thể bảo đảm cho những người Do Thái rải rác trên thế giới tự do và bình đẳng thực sự. Họ cần có một phát ngôn viên đại diện, một chính phủ được các quốc gia khác công nhận và đủ khả năng làm mọi người kính trọng dân Do Thái.
Cuốn sách trong đó ông trình bày các ý tưởng của mình đã trở thành hiến chương của phong trào phục quốc Do Thái. Cuốn sách này mang tên Quốc gia Do Thái.
Có một lòng đam mê sáng suốt thúc đẩy, Herzl lao ngay vào hành động. Ông tìm thấy ủng hộ ở Ba Lê, Đức, Luân Đôn. Không những được sự ủng hộ từ đồng bào mà thôi, mà còn có nhiều nhân vật Ki-tô giáo yểm trợ nữa. Năm 1897, Ba Lê, nhóm họp một đại hội các trưởng cộng đồng Do Thái trên toàn thế giới. Quả là một hội nghị Do Thái giáo, đại hội đã bao gồm những kẻ ủng hộ giải pháp đồng hóa lẫn các Thân hữu của Sion, những người theo chính thống giáo lẫn những người theo chủ nghĩa xã hội. Mặc dù các dị biệt, tất cả những người này ràng buộc với nhau bằng một tình cảm chung: sự nổi dậy chống lại hai ngàn năm áp bức tàn bạo. Bản quyết nghị sau cùng của đại hội chủ trương việc tạo lập, ở xứ Israel, một quốc gia Do Thái, phương cách duy nhất để giải thoát người Do Thái tại tất cả các quốc gia.
Phong trào phục quốc Do Thái đã được phát sinh như thế mục đích là “thành lập một Quê Nhà ở Palestine, một quê nhà được quốc tế công pháp bảo vệ”.
Theodor Herzl ghi trong nhật ký của mình như sau: “Nếu tôi đi ra ngoài đường phố mà loan báo rằng tôi vừa đặt nền móng cho Quốc gia Do Thái, chắc tôi sẽ bị nhiều người chế riễu. Nhưng trong năm năm, hay có thể mười năm, tất cả mọi người sẽ công nhận quốc gia này”.
Bây giờ ông phải lo chuẩn bị căn bản chính trị, “Quê Nhà Do Thái” tương lai. Đối với ông trên đời không còn gì đáng kể ngoài dự án lớn này. Bỏ tài sản riêng ra tiêu, bỏ bê gia đình, tiêu hao sức khỏe, ông đi vào các thủ đô lớn, đến đâu ông cũng xin được tiếp kiến, các Quốc trưởng hay Thủ tướng để trình bày ý tưởng của mình. Ông thành công cả trong việc xin được Abd Ul-Hamid II cho gặp mặt, Abd Ul-Hamid II, “vị Sultan bị nguyền rủa” ấy, hoàng đế của Đế quốc Thổ đang tan rã. Sau một buổi mặc cả gay go, vị vua già thuận ban cho một lời hứa hẹn mơ hồ – Ngài sẽ cứu xét vấn đề một Quê nhà Do Thái ở Palestine – dĩ nhiên với điều kiện đổi lại bằng một trợ giúp, tài chính mà ngài đương hết sức cần. Sau đó Abd Ul-Hamid thử dùng những đề nghị của phong trào phục quốc Do Thái để kiếm ở nơi khác những trợ giúp nhiều thực chất hơn để rồi sau cùng gạt bỏ lời yêu cầu của Herzl. Thất vọng đầu tiên của cả một chuỗi dài những thất vọng sau đó…
Tuy thế, một vài năm sau Anh quốc biểu lộ ý muốn ủng hộ chính nghĩa phục quốc Do Thái thiết lập vững chắc ở Ai Cập và ở chừng nửa tá thiểu quốc khác ở Azabie, đã sẵn sàng tiếp thu và kế vị Đế quốc Thổ đang hấp hối, người Anh tìm sự ủng hộ của các tổ chức lớn để thể hiện các ước vọng riêng trong miền Trung Đông. Vì vậy người Anh đề nghị tặng cho phong trào phục quốc một phần bán đảo Sinai với lời ghi chú rằng miền này ở ngay cửa vào Palestine, và ngay sau khi Thổ Nhĩ Kỳ sụp đổ các cửa ấy sẽ mở ra. Nhưng dầu thế, đề án này vẫn mơ hồ, thiếu rõ ràng, còn về phía Heizl, ông bao giờ cũng hy vọng đạt được một sự chấp thuận trực tiếp cho Palestine, nên rút cục đề án ấy phải bỏ đi.
Trong những năm sau đó, các vụ Pogrom ở Đông Âu và Trung Âu vẫn không ngừng tiếp diễn. Hezl hiểu rằng nếu muốn mang lại một nơi tị nạn cho những người Do Thái sống sót, ông bắt buộc phải nhận một giải pháp tạm thời. Người Anh liền đề nghị mở một cộng đồng Do Thái trên lãnh thổ xứ Ouganda tại Trung Phi. Và Heizl đành buồn bã hứa sẽ đưa dự án này ra Đại hội Phục quốc Do Thái lần tới.
Vừa mới bắt đầu bàn luận, kế hoạch trên đã vấp phải sự chống đối mãnh liệt của phe phục quốc Nga. Đối với họ, chỉ có xứ Israel mới có thể là nơi của Quốc Do Thái tương lai. Ouganda? Kinh thánh cũng còn chẳng biết tới địa danh này!
Tuy thế hai mươi lăm năm bạo hành liên tục ở Nga và Ba Lan đã làm tăng dòng người di cư về Palestine. Năm 1900, chừng năm mươi ngàn Do Thái đã lập nghiệp ở Palestine, trước sự giận dữ của Abd Ul-Hamid vì vị này coi họ như là các đồng minh tiềm ẩn của Anh quốc. Nhưng bây giờ đã quá trễ để hãm phong trào di cư lại. Có một bộ chỉ huy đầu não tổ chức vững chắc ở Anh và một ngân hàng nhiều phương tiện mạnh mẽ, những người phục quốc xoay quanh dễ dàng sắc luật về nhập nội do vị Sultan ấy ban hành bằng cách mua chuộc sự a tòng của các viên chức Thổ tham nhũng thường xuyên. Tất cả những ai muốn vào Palestine trước sau rồi đều vào được.
Vì thế đợt sóng trở về Đất Thánh đầu tiên đã đập được vào bờ mong muốn.
Vào đầu thế kỷ 20, toàn thể Trung Đông sôi lên sùng sục, phong trào phục quốc Do Thái, sự thức tỉnh của chủ nghĩa quốc gia Ả Rập, sự suy tàn nhanh chóng của đế quốc Thổ; sức mạnh đang lên của Anh quốc, đều là những yếu tố có thể nổ như lò thuốc súng, trộn lẫn trong một lò nung nóng bỏng có thể nổ tung lên bất cứ lúc nào, Theodor Herzl không được dự khán sự thể hiện giấc mộng lớn lao của ông. Mòn mỏi vì làm việc quá sức, suy sụp vì thần kinh căng thẳng thường xuyên, ông chết đột ngột vì một cơn đau tim vào năm 44 tuổi, đúng mười năm sau ngày ông nghe thấy tiếng kêu thảm thiết của Dreyfus: “Tôi vô tội!”

Vào thời kỳ sống lại lần thứ nhất của phong trào phục quốc này, hai anh em Rabinsky đã là những kẻ cựu trào của Palestine: họ hoàn toàn biết rõ từng miền của xứ sở, đã làm hầu hết mọi nghề và không còn ảo tưởng nào nữa.
Nếu Yakov không giấu diếm niềm chua chát của mình, Jossi lại hãy còn thử kiếm tìm một sự hài lòng nào đó trong cuộc sống mới. Chàng thích thú tự do mình được hưởng, lúc nào cũng sẵn lòng mơ đến thung lũng Houleh ở phía trên Safed, vùng đất đầu tiên chàng đã được nhìn ngắm khi bước chân lần đầu vào đất Israel.
Đối với Yakov thì Thổ và Ả Rập cũng y như nhau. Đó đều là những kẻ thù vừa nguy hiểm vừa đáng khinh y hệt bọn cosaque và học sinh trung học Jitomir. Ở điểm này nữa Jossi cũng không đồng ý với em. Yakov lầu nhầu :
– Ồ, chắc chắn rồi, chắc là chúng ta có thể có được đất bằng các phương sách hợp pháp, bằng cách bỏ tiền đi mua đất rồi. Nhưng mà để làm gi? Chúng ta thiếu nhân công canh tác, chưa nói tới tụi Bédouin và tụi Thổ không bao giờ để chúng ta làm việc yên ổn cả.
– Chúng ta sẽ có đủ nhân công canh tác khi các vụ pogrom tàn sát dân ta hơn nữa. Còn bọn Thổ? Chú cũng biết ta mua được họ mà. Còn về dân Ả Rập, chúng ta phải học cách sống hòa thuận với họ, nghĩa là bắt đầu bằng cách tìm hiểu họ.
Yakow nhún vai :
– Tụi Ả Rập chỉ hiểu có một điều…
Chàng giơ nắm tay lên thật mạnh, đe dọa :
– … cái này đây!
Jossi tiên đoán :
– Cái điệu chú rồi sẽ có ngày lên đoạn đầu đài thôi.
Vào đầu thế kỷ Yakov gia nhập một nhóm gồm mười lăm người trên khu, dự tính làm một cuộc phiêu lưu táo bạo: khai hoang một khoảng đất nằm dưới đáy thung lũng Jezreel, một vùng mà chưa có người Do Thái nào dám bước chân vào từ nhiều thế kỷ. Họ định thành lập một trung tâm thực tập nông nghiệp và một trại thí nghiệm. Việc lựa chọn địa điểm thật đáng ngạc nhiên: bị bao quanh bằng các làng Ả Rập, nông trại mới là miếng mồi ngon cho các dân Bédouin sẵn sàng giết hết tất cả chỉ để chiếm lấy một chiến lợi phẩm nhỏ bé.
Năm 1902, hội Fondation Schuman liên lạc với Rabinsky để đề nghị với chàng chức vụ người đi mua đất khai hoang. Sự am hiểu hoàn toàn xứ sở, lòng can trường đã chứng tỏ qua các vụ dám đi một mình vào các vùng hoàn toàn Ả Rập đã đưa chàng tới chức vụ mới này. Nói cho thực ra, Jossi chỉ có một tin tưởng hết sức tương đối ở tương lai các trại nông nghiệp. Sống nổi nhờ trợ cấp phước thiện, khai thác nhân công của các fellah [2] đối với chàng không phải là phương pháp tốt để đạt tới chỗ phục sinh Quốc gia Do Thái. Tuy vậy viễn ảnh được làm việc phục vụ cho sự định cư khai hoang đã thắng các e ngại đối kháng riêng đến nỗi sau cùng chàng đã nhận lời mời làm người đi mua đất chính cho Hội.
Các cấp điều khiển Fondation Schuman rất hài lòng về sự chọn lựa của mình. Jossi, ba mươi tuổi, to lớn, bắp thịt rắn chắc, với con ngựa giống Ả Rập đã hợp thành hình ảnh một centaure [3] đáng nể. Bộ râu đỏ của chàng nổi bật trên bộ quần áo Ả Rập trắng tinh. Nhiều băng đạn quàng chéo trên ngực, một ngọn roi da cài thắt lưng, chàng tiến vào vùng đồi Samarie, cánh đồng Sharon, sa mạc Galilée, tìm kiếm đất mới.
Từ đầu đến cuối xứ Palestine thời ấy, đa số đất đai ở trong tay chừng năm mươi gia đình thế lực, các effendis. Các đại địa chủ này lấy một hoa lợi ở các người cấy rẻ Ả Rập lên tới ba phần tư hoa mầu mà không hề tìm cách cải tiện đời sống khốn khổ của các tá điền. Dĩ nhiên là các effendis chỉ chịu bán – với giá cắt cổ – những đất đai xấu nhất, các khoảng đất sa mạc hay đầm lầy hôi thối. Theo họ nghĩ, vụ bán đất này lợi tới hai lần: vừa loại bỏ được những mảnh đất chưa bao giờ sản xuất được gì, vừa mang lại ngàn năm một thủa “vùng Do Thái”.
Trong những chuyến đi mua đất, Jossi sẵn lòng vượt qua trại Rosh Pinna, cơ sở sau cùng của Do Thái ở mạng bắc, để đến viếng Kammal, mouktar của làng Abou Yesha. Hai người trở thành bạn thân rất nhanh. Lớn hơn Jossi vài tuổi, Kammal quả thực là một người đặc biệt trong giới effendis ở Palestine. Trong khi đa số các địa chủ sống một cuộc đời ăn không ngồi rồi ở Beyrouth hay Caire, Kammal lại để hết thì giờ vào việc quản trị địa hạt của mình bao gồm làng và các đất đai chung quanh. Jossi được biết rằng chừng một chục năm trước đây, Kammal đã biết thế nào là một thảm kịch tình yêu thực sự. Vị hôn thê của chàng, con gái của một fellah nghèo khổ, đau mắt hột và Kammal sẵn lòng cho tất cả những gì mình có để nàng được một y sĩ chữa chạy. Nhưng bố chàng nhất định không chịu nghe những lời cầu khẩn van nài của chàng. Kammal giàu có để nuôi bốn thê mười thiếp sao? Vậy mà lại đi lãnh một con bé nhà quê tầm thường, lại còn ốm đau nữa? Đến nỗi cô gái, vì không được thuốc, trở thành mù rồi chết sau một thời gian, trước khi đến tuổi mười tám.
Thảm kịch này làm Kammal trở thành một kẻ thù của chính giai cấp mình. Bị xúc động đến nỗi cảm thấy trong lòng trổi dậy cả một lương tâm xã hội, Kammal lên đường đi Caire. không phải để sống một cuộc đời hưởng lạc dễ dãi, mà để học những phương pháp mới về canh tác, vệ sinh và y khoa. Sau cái chết của phụ thân, chàng trở về Abou Yesha, cương quyết mang lại một tối thiểu tiện nghi dễ thở cho dân làng mình.
Việc nhập nội của các di dân Do Thái là một hiện tượng làm cho chàng ngỡ ngàng. Chính để tìm hiểu ý nghĩa cùng hậu quả của hiện tượng này, Kammal đã nuôi dưỡng tình bạn với Jossi. Tuy thế, Jossi báo cho chàng biết ước muốn mua một khoảng đất bỏ hoang để thành lập một nông trại di dân, chàng đã trả lời một cách mơ hồ. Những ngươi Do Thái này làm chàng băn khoăn suy nghĩ. Liệu có thể sống chung với họ không, có thể tin ở họ không? Trong thâm tâm, chàng nghi ngờ lắm: hiển nhiên tất cả Do Thái không thể giống như Jossi Rabinsky – một con người xứng đáng để ta kính trọng. Vả lại Kammal không muốn làm effendi đầu tiên trong vùng bán đất cho di dân.

Năm 1905, cuộc cách mạng Nga, sau khi ầm ỉ từ nhiều năm đã bùng nổ… để rồi bị dẹp yên trong máu lửa. Vụ nổi dậy thất bại này làm phát động nhiều vụ pogrom mới, lần này kinh khủng đến nỗi cả thế giới phải kinh hoàng. Nhưng mặc dù sự tức giận của Léon Tolstoi, người đã đứng ra công khai kết án thái độ của Sa hoàng cùng chính phủ Nga, các đoàn Hắc Bạch binh, chuyên viên tàn sát người Do Thái được Mật vụ Nga che chở, vẫn tiếp tục các vụ càn quét giết người cho đến khi hàng trăm ngàn người Do Thái phải chạy trớn khỏi nước Nga. Đa số đó di cư sang Hoa Kỳ, chỉ một số nhỏ đi Palestine.
Số nhỏ người này tuy thế lại thuộc một thế hệ rất khác thế hệ những người di cư đầu tiên. Họ không hề chú ý đến thương mại và tiểu công nghệ. Trẻ tuổi, đã cứng cỏi vì những thử thách đã trải qua, thấm nhuần tư tưởng phục quốc, họ cương quyết làm việc cho sự phục sinh mlền đất cát.
Đợt di cư thứ hai vào miền Đất Thánh đã xảy ra trong hoàn cảnh như thế.
—————————————-
[1] Dreyfus: một sĩ quan Pháp gốc Do Thái bị kết án oan là cung cấp tin cho địch (Đức). Bị tước binh quyền và tù đầy Dreyfus vẫn tiếp tục kêu oan. Dư luận Pháp bênh vực Dreyfus gây ra một tình trạng xáo trộn và chia rẽ ở Pháp. Vụ án được mang ra xử lại và Dreyfus được trắng án, phục hồi danh dự và binh quyền.
[2] Fellah : tá điền và nông dân nghèo Ả Rập.
[3] Centaure: thân trên như người, thân dưới như ngựa, trong thần thoại cổ Hy Lạp.

Phần 2 – 6
Vừa mới lên bờ các người di cư đợt hai đã lên đường, thành từng nhóm nhỏ tới các đất đai mà các effendi đã bán lại cho Cơ quan trung ương của phong trào phục quốc. Khai hoang các đầm lầy trở thành khẩu hiệu nhật tụng. Đối với Yakov, bây giờ đương làm việc ở Séjérah một nông trại thí nghiệm mới trong đồng bằng Galilée, sự hăng hái của những kẻ tiên khởi đợt hai này quả thực là một kích thích tuyệt vời. Đến nỗi một ngày nọ chàng làm một chuyến đến Jaffa để trình bày với anh mình một dự án chàng mới nghĩ ra :
– Như anh biết đấy, tụi Bédouin làm một trò xăng-ta với các nông trường của chúng ta: hoặc là họ đánh chúng ta, hoặc chúng ta phải mướn họ làm vệ quân che chở cho chúng ta chống lại… chính tụi họ. Chúng vừa thử đem áp dụng phương pháp đó ở Séréjah: chúng đã đến thăm, cắt nghĩa cho biết tụi chúng sẽ làm những gì nếu chúng ta không chịu mướn họ bảo vệ. Nhưng ít nhất lần này, bọn tôi cười vào mũi tụi chúng. Chúng tôi đã tự sức bảo vệ lấy, và tôi phải nói thực rằng vào lúc đầu, tình hình bên chúng ta không thuận lợi mấy. Cho tới hôm mà chúng tôi tổ chức một vụ phục kích và giết được tên đầu đảng. Kể từ đó không thấy tụi chúng ló mặt nữa. Kết luận rõ như ban ngày: nếu chúng ta có thể bảo vệ một nông trường, chúng ta có thể bảo vệ tất cả các nông trường khác. Hậu quả là chúng tôi đã tổ chức các đoàn dân vệ lưu động, và chúng tôi mong anh sẽ đứng ra chỉ huy một đoàn đó.
Ngạc nhiên, nhưng bị quyến rũ vì dự án, Jossi một lần nữa lại thận trọng cố hữu :
– Chú hãy để cho tôi thì giờ suy nghĩ đã…
– Tôi không thấy có gì đáng để suy nghĩ cả.
– Chú chẳng bao giờ thay đổi cả, Yakov: đối với chú một vấn đề bao giờ cũng chỉ có hai mặt: trắng và đen. Trước hết tôi nghĩ rằng tụi Bédouin khó lòng chịu bỏ một nguồn lợi tức như vậy mà không chiến đấu. Kế đó, còn tụi Thổ nữa. Người Thổ chắc chắn sẽ chống lại chuyện chúng ta võ trang. Đoàn dân vệ của chú họa chăng chỉ được phép có các gậy gỗ, chầy vồ mà thôi.
– Dẹp các lý luận của anh đi! Anh có thuộc về phía chúng tôi không thì nói, có hay không?
– Tôi đã nói với chú là tôi phải nghĩ đã. Các nông dân của chúng ta có lẽ không muốn có các người bảo vệ như chú tưởng. Và điều làm tôi khó nghĩ nhất là…. nếu chúng ta đi lang thang khắp xứ này, và võ trang thật đầy đủ, thì thiên hạ có thể nghĩ ra là chính chúng ta muốn gây hấn.
Yakov giơ hai tay lên trời :
– Khi ta muốn bảo vệ tài sản ta thì ta phải gây hấn! Quả thực là sau hai mươi năm sống ở Palestine, anh vẫn lý luận như một tên Do Thái ở ghetto. Chắc anh thích khai hoang cái xứ này dưới sự che chở của các tay cắt gân người Ả Rập chắc! Này anh Jossi, có anh không có anh, các đoàn dân vệ cũng đang thành lập. Đơn vị mà chúng tôi đề nghị anh giữ quyền chỉ huy ấy sẽ lên đường ngay từ tuần sau để đến căn cứ.
– Căn cứ này ở đâu?
– Trên ngọn Canaan.
Jossi kìm giữ cho mình khỏi giật mình. Chàng liếm môi và cúi đầu để che giấu xúc động.
– Tôi nhắc lại với chú là tôi cần suy nghĩ đã.
Jossi quả thực suy nghĩ thật. Từ lâu nay, chàng đã chán việc đi mua đất cho Fondation Schuman, chán việc thiết lập các nông trại trông cậy vào lòng hảo tâm của tỷ phú Thụy Sĩ hơn là tin vào sức làm việc của mình. Ngoài ra, một nhóm Do Thái nhỏ võ trang, toàn những dân nóng tính như Yakov, dám gây ra nhiều rối loạn trong xứ – ngoại trừ khi họ được chỉ huy bởi một người điềm đạm đúng mực như chàng. Nhưng chàng làm thế nào chống lại sự thèm muốn được sống trong vùng núi Canaan, gần thung lũng Houleh nơi mà chàng luôn luôn mơ ước tới.
Vậy Jossi đành từ chức khỏi Fondation Schuman để gia nhập toán quân vừa tới ngọn Canaan. Nhiệm vụ của hashomer (người bảo vệ) là coi sóc một vòng tròn rộng lớn lấy ngọn núi này làm tâm điểm, bao phủ cả vùng Rosh Pinna phía bắc tới tận thung lũng Genossar, dọc theo hồ Tibériade ở phía nam. Khi tổ chức những toán tuần tiễu, Jossi ý thức rằng các vụ đụng độ chắc sẽ xảy ra đến nơi. Ngay sau khi các Bédouin nhận thấy mình bị mất nguồn lợi lộc ấy, chúng sẽ tấn công. Một lần nữa, Jossi lại suy nghĩ. Sau vài giờ, chàng đã nghĩ ra một kế hoạch có thể ngăn ngừa được tất cả các đụng độ rắc rối. Bộ lạc nguy hiểm nhất trong vùng là bộ lạc có tay Suliman đứng đầu, một tay cướp lão luyện và cũng là dân buôn lậu nữa, sào huyệt của chúng thường đặt trong vùng đồi mạn trên Abou Yesha. Cho tới giờ, để đổi lại “sự bảo vệ”, Suliman lấy một phần tư hoa mầu của Rosh Pinna. Hai mười giờ sau khi tới trại – trước khi quân Ả Rập có thể biết có sự hiện diện của các vệ quân Do Thái – Jossi ra đi một mình, không vũ khí, tìm nơi cắm trại của Suliman.
Chàng chỉ tìm ra vào lúc hoàng hôn – chừng năm mươi chiếc lều bằng da dê rải rác trên sườn của một quả đồi mặt trời thiêu cháy. Sự xuất hiện của kẻ lạ mặt to lớn râu đỏ này gây ra một sự kinh hoảng. Đàn bà con gái, mặc đồ đen mỏng, mặt che bằng một màng làm bằng những đồng tiền xâu vào nhau, vội vàng chạy tìm chỗ trú. Từ phía giữa trại, một người da đen, chắc gốc Soudan, tiến về phía khách, tự giới thiệu như là nô lệ riêng của Suliman rồi đưa khách về chiếc lều lớn nhất.
Khi Jossi đặt chân xuống đất, tên cướp già bước ra tiếp. Mặc toàn đen, hai dao găm tuyệt đẹp cài thắt lưng, Suliman chột một mắt, mặt đầy những vết thẹo chứng tỏ các trận đấu chống những người trang bị dao hay lao, hoặc những phụ nữ có móng tay nhọn. Người dân Do Thái và người dân Bédouin nghinh nhau một lúc, rồi Suliman nghiêng người kính mời Jossi vào lều.
Ngồi trên các gối và chăn trải trên đất, trong lễ nửa giờ đồng hồ họ chỉ trao đổi nhau những câu nói phép và những chuyện tầm phào, vừa ăn trái cây và uống cà phê do người nô lệ mang lại, hoặc hút một thứ điếu cầy đặt giữa hai người. Sau đó, một tiếng đồng hồ, họ thưởng thức bữa cơm: cơm hầm, dái cừu chiên, dưa. Rõ ràng là Suliman đang cố gắng đánh giá trị ông khách: anh chàng lực sĩ này chắc chắn không là một dân Do Thái tầm thường đến đây vì một vụ không quan trọng. Sau cùng Suliman quyết định hỏi khách về lý do thăm viếng. Jossi báo cho chủ nhân biết rằng kể từ giờ dân vệ Do Thái sẽ tự lo lấy việc bảo vệ nông trường Rosh Pinna, cùng gởi lời cảm ơn Suliman đã bảo vệ chung thủy trước đây. Suliman tiếp nhận tin này không hề nháy con mắt duy nhất còn lại, và khi Jossi đưa tay ra để giao hảo bằng hữu, Suliman mỉm cười và xiết chặt bàn tay phải của khách.
Đến khuya, Jossi mới trở về trại Rosh Pinna và ngay lập tức triệu tập tất cả các dân trại tới họp. Chàng đã không lầm: việc loan báo thành lập các vệ quân được mọi người đón tiếp bằng những tiếng kêu sợ hãi. Tất cả đều tin rằng ngay khi nào có dịp, Suliman sẽ cắt cổ họ hết. Jossi phải hứa sẽ ở lại nông trại, họ mới yên lòng.
Ở cuối phòng, một thiếu nữ đã nghe và nhìn chàng chăm chú đam mê. Nàng là Sarah và vừa từ một thành phố nhỏ ở miền Silésie bên Ba Lan về đây. Jossi càng to lớn bao nhiêu thì nàng càng mảnh mai nhỏ bé bấy nhiêu, râu chàng càng đỏ hung bao nhiêu thì tóc nàng càng đen huyền bấy nhiêu. Buổi họp bế mạc, nàng như tình cờ đứng gần chàng. Chàng hỏi :
– Cô mới tới nơi này?
– Vâng.
– Tên tôi là Jossi Rabinsky…
– Tất cả mọi người đều đã được nghe nói về anh.
Đêm đó, hai người không đi xa hơn thế trong chuyện tình.
Jossi kéo dài thời gian lưu lại trại này tới một tuần. Chàng tin chắc thể nào Suliman cũng ra tay, nhưng chàng cũng biết lão Bédouin này khá mưu mô để biết chờ đợi thời cơ thuận tiện. Dẫu thế nào Jossi cũng không sốt ruột: tâm tư chàng mỗi lúc một tập trung vào Sarah. Nhưng sự hiện diện của thiếu nữ làm chàng đâm ra rụt rè và ít nói; nàng càng tỏ ra tinh nghịch, chọc ghẹo chàng bao nhiêu, chàng càng thu mình trong vỏ ốc bấy nhiêu. Tất cả dân cư trong nông trại đều biết Jossi Rabinsky đã yêu Sarah rồi, tất cả, trừ chính đương sự.
Ngày thứ tám, vào lúc nửa đêm, chừng chục người Ả Rập lẻn vào Rosh Pinna mang đi mấy trăm ký thóc. Jossi, đang phiên canh, thấy bọn chúng tới, lẻn vào vựa thóc rồi lại bỏ ra. Chàng có thể bắt quả tang nhưng cố dằn lại: đối với dân Bédouin, ăn cắp chỉ là một khinh tội mà thôi. Chàng có một kế hoạch hay hơn.
Sáng ngày hôm sau chàng nhảy lên ngựa làm một chuyến thăm viếng trại Suliman lần thứ hai. Lần chàng trang bị… ngọn roi da bò. Phóng nước đại, chàng tới thẳng lều của tướng cướp. Tên nô lệ người Soudan bước ra, cười ngọt ngào mời chàng vào. Bằng một cái bạt tai, Jossi đánh hắn ngã lăn ra đất. Chàng la lớn bằng giọng mạnh mẽ của mình :
– Suliman! Suliman mi hãy thò mặt ra đây!
Liếc mắt, chàng thấy khoảng mười tên Ả Rập không biết từ đâu xuất hiện, súng cầm tay, vẻ mặt ngạc nhiên lộ rõ.
– Ohé, Suliman! Mi trốn ở đâu?
Viên tù trưởng tiến ra một cách chậm chạp cố ý. Nắm tay lại đặt lên hông, môi nhíu lại trong một nụ cười đe dọa, lão dừng lại trước mặt khách chừng ba thước hỏi thủ hạ chung quanh :
– Không biết con dê ốm nào nó kêu be he quanh lều ta vậy cà?
Càc dân Bédouin cười phá lên. Jossi lờ họ đi để coi chừng từng cử chỉ của tên cướp già.
– Con dê ốm ấy tên là Jossi Rabinsky và nó tuyên bố rằng Suliman là một tên ăn cắp, lại thêm nói dối nữa.
Nụ cười trên môi Suliman biến thành cười khẩy. Xúm quanh thành nửa vòng tròn, các Bédouin sẵn sàng nhảy xổ ngay vào kẻ lạ kia ngay khi nào có hiệu lệnh của chủ tướng. Jossi nói tiếp, khinh bỉ :
– Mi còn chờ đợi gì nữa. Tại sao mi không kêu gọi tới các thuộc hạ trẻ tuổi của mi đi? Ta thấy rõ là danh dự của mi không bằng một con heo, can đảm của mi không hơn can đảm của đàn bà.
Không can đảm hơn đàn bà… lời chửi rủa độc địa nhất đối với một người Ả Rập… Ngoại trừ khi chịu mất mặt, Suliman phải chấp nhận lời thách thức của địch thủ. Lão hét lên, hai nắm tay đưa ra :
– Mẹ mày là đồ chó cái dơ dáy nhất thế giới!
– Nói tiếp đi, mụ già… tiếp tục lèm bèm đi.
Bị xúc phạm danh dự, Suliman rút một con dao găm bạc ra, hét lên một tiếng man rợ, lao về phía người khổng lồ đã khiêu khích lão.
Ngay lúc đó ngọn roi da vút lên… Ngay lập tức, Jossi lao tới sợi dây quấn chung quanh cổ chân lão Ả Rập, kéo bổng lên trời, ném ngã sấp xuống đất. Ngọn roi quất vào lưng Suliman mạnh đến nỗi tiếng đập vang dội vào các quả đồi chung quanh.
Đến ngọn roi thứ năm, tên cướp già xin hàng, kêu lên :
– Chúng ta là anh em! Chúng ta tất cả đều là anh em.
Jossi lùi lại một bước, nói :
– Suliman, cách đây một tuần, mi đã xiết tay ta để bảo đảm danh dự và bằng hữu với nhau. Thế mà lời nói này, mi đã không giữ. Ta long trọng báo cho mi biết: nếu mi, hay một thủ hạ của mi, còn đặt một chân lên các cánh đồng thôi, ta sẽ cắt mi ra từng mảnh bằng cái roi này, vứt xác cho chó rừng ăn.
Chàng quay lại đối diện với các Bédouin đang sững sờ. Không một kẻ nào có đủ can đảm nhúc nhích. Chưa bao giờ chúng trông thấy một người mạnh đến thế, táo bạo đến thế và giận dữ đến như vậy. Không thèm để ý đến mũi súng đe dọa, Jossi nhảy lên ngựa ra đi.
Bài học đã có hiệu lực: Suliman không bao giờ dám đụng tới các đồng ruộng của người Do Thái nữa.
Sáng ngày hôm sau, khi Jossi sắp sửa lên đường với toán quân của mình trên sườn ngọn Canaan, Sarah hỏi khi nào chàng định trở lại. Đỏ mặt, Jossi lúng túng nói một cái gì đại khái như: “Mỗi tháng một lần… gần như… cứ bốn hay năm tuần…”. Rồi chàng vội vã chào nàng, thúc ngựa ra đi. Vừa nhìn theo chàng, Sarah có cảm tưởng tim nàng sắp nổ vỡ tan tành. Không có một đàn ông nào trên thế gian bằng được người đó, không ai bằng đến gót chân chàng – dù kẻ đó là Do Thái, Ả Rập, Cosaque hay vua chúa đi nữa! Để cả đời, nàng cũng thấy chưa đủ để yêu và thán phục chàng!
Trong một năm liền, đứng đầu đoàn vệ quân, Jossi đã thành công việc mang lại bình an cho toàn vùng quanh núi Canaan. Đời sống của chàng không quá vui, cũng chẳng quá buồn. Nhưng trong các chuyến đi quanh vùng, chàng ưa thích nhất khúc phía bắc: chính ở phía bắc là nơi ông bạn Kammal ở, nơi có ngọn đồi từ đó nhìn xuống thung lũng Houleh. Chính cũng về phía bắc là nơi có Rosh Pinna, có Sarah, thiếu nữ xinh xắn, mắt đen lớn mà hình ảnh thường xuất hiện trong các giấc mơ của chàng. Khi chàng tiến vào nông trại này, chàng vươn mình ngồi thẳng trên yên, thúc cho ngựa chồm lên vì chàng biết có Sarah đang nhìn. Nhưng mỗi khi đứng trước mặt nàng, vẻ tự tin đẹp đẽ của chàng tan biến đi đâu mất hết, thay thế bằng một sự nhút nhát đến khôi hài.
Về phía Sarah, nàng phân vân. Tất cả cố gắng nàng đã thử làm để phá vỡ cái vỏ chàng đang thu mình vào đều không đi đến đâu. Ở Âu châu, trong thành phố nàng sinh sống, mọi sự sẽ rất giản dị: một người mối chuyên nghiệp, một nhân vật quan trọng trong ghetto, sẽ tới thăm phụ thân Jossi, và mọi sự sẽ ổn thỏa. Còn ở đây, Rosh Pinna, không có người mối mang gì cả, và cũng không có cả vị rabbin nữa.
Tình trạng như thế kéo dài hơn một năm cho tới một hôm, sau hết Jossi đã tìm thấy đủ can đảm, không phải để thổ lộ tình yêu – điều mà chàng không hề dám nghĩ tới – để tiến được lên một bước: vừa tới Rosh Pinna, Jossi đã hỏi xem nàng có muốn đi cùng chàng lên thung lũng Houleh ở phía bắc nông trại không. Sarad không đợi chàng mờ tới lần thứ nhì. Cưỡi ngựa song song nhau, họ vượt qua Abou Yesha, tiến vào vùng đồi. Con đường mòn ngừng lại ở một mỏm đồi, Jossi biết rất rõ. Chàng nói nhỏ :
– Tôi đã vào xứ Palestine qua đúng chỗ này đây, lâu rồi.
Đối với Sarah, vài lời nói ấy là quá đủ. Khi nhìn chàng đứng ngắm thung lũng, nàng hiểu chàng yêu miền đất này đến như thế nào. Im lặng, họ nhìn cảnh vật bao la. Một đôi lứa bề ngoài thật là khác nhau: một chàng trai vĩ đại, vẻ ngoài dữ tợn, một cô gái mảnh mai chỉ cao chưa tới nửa ngực chàng.
Đột nhiên Sarah cảm thấy một tình tự nồng nhiệt như thúc đẩy nàng về phía Jossi. Bởi vì chàng chỉ tìm thấy mỗi cảnh này thôi để bày tỏ với nàng ước mong quý giá nhất… Sarah thì thào:
– Anh Jossi, Jossi Rabinsky, anh có nhận… ô, xin anh… anh có nhận lấy em làm vợ anh?
Chàng phải hắng giọng trước khi bập bẹ thốt ra lời :
– À… tôi… em… lạ thật! Tôi cũng đang định hỏi em điều đó….

Chưa bao giờ, trong khắp xứ Palestine người ta được thấy một đám cưới như vậy. Các quan khách từ các miền xa nhất của Galilée đến, và có những người tới từ Jaffa, mặc dù xa cách đó tới hai ngày đường. Yakov đến cùng đoàn vệ quân, các người khẩn hoang ở Rosh Pinna đến cùng nhiều effendi người Thổ, Kammal đến đã đành mà ngay cả lão già Suliman khốn kiếp ấy cũng tới nữa. Cả một đám đông quan khách chứng kiến cô dâu chú rể tiến vào dưới chiếc lọng lớn, trao đổi các lời kết ước và uống rượu thánh. Có đủ thức ăn đẩ cho cả một đạo quân, các vũ điệu, bài ca, tiếng cười kéo dài tới một tuần lễ.
Sau khi người quan khách cuối cùng đã ra về, Jossiđưa Sarah về lều của hai người trên sườn núi Canaan.
Tuần trăng mật của họ ngắn ngủi. Tổ chức trung ương của phong trào phục quốc kêu gọi Jossi gấp để điều khiển ở Jaffa một cơ sở cố vấn cho các di dân nào muốn lập nghiệp ở miền quê. Thẩm quyền chàng có trong địa hạt này cùng sự am hiểu hoàn toàn xứ sở làm chàng hoàn toàn thích hợp với nhiệm vụ này.
Một thời gian sau, năm 1909, mọi người tham khảo chàng về một vụ hết sức quan trọng. Cộng đồng Do Thái ở Jaffa lớn mạnh đều đều và mọi người muốn có các nhà ở tiện nghi hơn, các điều kiện sinh hoạt phù hợp với vệ sinh cùng các hoạt động văn hóa.
– Những tiện nghi mà thành phố Ả Rập cũ không thể mang lại được. Jossi là một trong những người đề xướng và thực hiện kế hoạch mua một dải đất phía bắc Jaffa, một nơi nhiều cát và chỉ có một vài trại cam nhỏ.
Chính từ nơi này đã nảy sinh thành phố đầu tiên hoàn toàn là Do Thái kể từ hai ngàn năm nay. Mọi người đã tìm ra tên
đặt cho đô thị này: Đồi Xuân, gọi theo tiếng hébreu là: Tel-Aviv [1].
————————————
[1] Nay là thủ đô của quốc gia Israel.

Phần 2 – 6
Vừa mới lên bờ các người di cư đợt hai đã lên đường, thành từng nhóm nhỏ tới các đất đai mà các effendi đã bán lại cho Cơ quan trung ương của phong trào phục quốc. Khai hoang các đầm lầy trở thành khẩu hiệu nhật tụng. Đối với Yakov, bây giờ đương làm việc ở Séjérah một nông trại thí nghiệm mới trong đồng bằng Galilée, sự hăng hái của những kẻ tiên khởi đợt hai này quả thực là một kích thích tuyệt vời. Đến nỗi một ngày nọ chàng làm một chuyến đến Jaffa để trình bày với anh mình một dự án chàng mới nghĩ ra :
– Như anh biết đấy, tụi Bédouin làm một trò xăng-ta với các nông trường của chúng ta: hoặc là họ đánh chúng ta, hoặc chúng ta phải mướn họ làm vệ quân che chở cho chúng ta chống lại… chính tụi họ. Chúng vừa thử đem áp dụng phương pháp đó ở Séréjah: chúng đã đến thăm, cắt nghĩa cho biết tụi chúng sẽ làm những gì nếu chúng ta không chịu mướn họ bảo vệ. Nhưng ít nhất lần này, bọn tôi cười vào mũi tụi chúng. Chúng tôi đã tự sức bảo vệ lấy, và tôi phải nói thực rằng vào lúc đầu, tình hình bên chúng ta không thuận lợi mấy. Cho tới hôm mà chúng tôi tổ chức một vụ phục kích và giết được tên đầu đảng. Kể từ đó không thấy tụi chúng ló mặt nữa. Kết luận rõ như ban ngày: nếu chúng ta có thể bảo vệ một nông trường, chúng ta có thể bảo vệ tất cả các nông trường khác. Hậu quả là chúng tôi đã tổ chức các đoàn dân vệ lưu động, và chúng tôi mong anh sẽ đứng ra chỉ huy một đoàn đó.
Ngạc nhiên, nhưng bị quyến rũ vì dự án, Jossi một lần nữa lại thận trọng cố hữu :
– Chú hãy để cho tôi thì giờ suy nghĩ đã…
– Tôi không thấy có gì đáng để suy nghĩ cả.
– Chú chẳng bao giờ thay đổi cả, Yakov: đối với chú một vấn đề bao giờ cũng chỉ có hai mặt: trắng và đen. Trước hết tôi nghĩ rằng tụi Bédouin khó lòng chịu bỏ một nguồn lợi tức như vậy mà không chiến đấu. Kế đó, còn tụi Thổ nữa. Người Thổ chắc chắn sẽ chống lại chuyện chúng ta võ trang. Đoàn dân vệ của chú họa chăng chỉ được phép có các gậy gỗ, chầy vồ mà thôi.
– Dẹp các lý luận của anh đi! Anh có thuộc về phía chúng tôi không thì nói, có hay không?
– Tôi đã nói với chú là tôi phải nghĩ đã. Các nông dân của chúng ta có lẽ không muốn có các người bảo vệ như chú tưởng. Và điều làm tôi khó nghĩ nhất là…. nếu chúng ta đi lang thang khắp xứ này, và võ trang thật đầy đủ, thì thiên hạ có thể nghĩ ra là chính chúng ta muốn gây hấn.
Yakov giơ hai tay lên trời :
– Khi ta muốn bảo vệ tài sản ta thì ta phải gây hấn! Quả thực là sau hai mươi năm sống ở Palestine, anh vẫn lý luận như một tên Do Thái ở ghetto. Chắc anh thích khai hoang cái xứ này dưới sự che chở của các tay cắt gân người Ả Rập chắc! Này anh Jossi, có anh không có anh, các đoàn dân vệ cũng đang thành lập. Đơn vị mà chúng tôi đề nghị anh giữ quyền chỉ huy ấy sẽ lên đường ngay từ tuần sau để đến căn cứ.
– Căn cứ này ở đâu?
– Trên ngọn Canaan.
Jossi kìm giữ cho mình khỏi giật mình. Chàng liếm môi và cúi đầu để che giấu xúc động.
– Tôi nhắc lại với chú là tôi cần suy nghĩ đã.
Jossi quả thực suy nghĩ thật. Từ lâu nay, chàng đã chán việc đi mua đất cho Fondation Schuman, chán việc thiết lập các nông trại trông cậy vào lòng hảo tâm của tỷ phú Thụy Sĩ hơn là tin vào sức làm việc của mình. Ngoài ra, một nhóm Do Thái nhỏ võ trang, toàn những dân nóng tính như Yakov, dám gây ra nhiều rối loạn trong xứ – ngoại trừ khi họ được chỉ huy bởi một người điềm đạm đúng mực như chàng. Nhưng chàng làm thế nào chống lại sự thèm muốn được sống trong vùng núi Canaan, gần thung lũng Houleh nơi mà chàng luôn luôn mơ ước tới.
Vậy Jossi đành từ chức khỏi Fondation Schuman để gia nhập toán quân vừa tới ngọn Canaan. Nhiệm vụ của hashomer (người bảo vệ) là coi sóc một vòng tròn rộng lớn lấy ngọn núi này làm tâm điểm, bao phủ cả vùng Rosh Pinna phía bắc tới tận thung lũng Genossar, dọc theo hồ Tibériade ở phía nam. Khi tổ chức những toán tuần tiễu, Jossi ý thức rằng các vụ đụng độ chắc sẽ xảy ra đến nơi. Ngay sau khi các Bédouin nhận thấy mình bị mất nguồn lợi lộc ấy, chúng sẽ tấn công. Một lần nữa, Jossi lại suy nghĩ. Sau vài giờ, chàng đã nghĩ ra một kế hoạch có thể ngăn ngừa được tất cả các đụng độ rắc rối. Bộ lạc nguy hiểm nhất trong vùng là bộ lạc có tay Suliman đứng đầu, một tay cướp lão luyện và cũng là dân buôn lậu nữa, sào huyệt của chúng thường đặt trong vùng đồi mạn trên Abou Yesha. Cho tới giờ, để đổi lại “sự bảo vệ”, Suliman lấy một phần tư hoa mầu của Rosh Pinna. Hai mười giờ sau khi tới trại – trước khi quân Ả Rập có thể biết có sự hiện diện của các vệ quân Do Thái – Jossi ra đi một mình, không vũ khí, tìm nơi cắm trại của Suliman.
Chàng chỉ tìm ra vào lúc hoàng hôn – chừng năm mươi chiếc lều bằng da dê rải rác trên sườn của một quả đồi mặt trời thiêu cháy. Sự xuất hiện của kẻ lạ mặt to lớn râu đỏ này gây ra một sự kinh hoảng. Đàn bà con gái, mặc đồ đen mỏng, mặt che bằng một màng làm bằng những đồng tiền xâu vào nhau, vội vàng chạy tìm chỗ trú. Từ phía giữa trại, một người da đen, chắc gốc Soudan, tiến về phía khách, tự giới thiệu như là nô lệ riêng của Suliman rồi đưa khách về chiếc lều lớn nhất.
Khi Jossi đặt chân xuống đất, tên cướp già bước ra tiếp. Mặc toàn đen, hai dao găm tuyệt đẹp cài thắt lưng, Suliman chột một mắt, mặt đầy những vết thẹo chứng tỏ các trận đấu chống những người trang bị dao hay lao, hoặc những phụ nữ có móng tay nhọn. Người dân Do Thái và người dân Bédouin nghinh nhau một lúc, rồi Suliman nghiêng người kính mời Jossi vào lều.
Ngồi trên các gối và chăn trải trên đất, trong lễ nửa giờ đồng hồ họ chỉ trao đổi nhau những câu nói phép và những chuyện tầm phào, vừa ăn trái cây và uống cà phê do người nô lệ mang lại, hoặc hút một thứ điếu cầy đặt giữa hai người. Sau đó, một tiếng đồng hồ, họ thưởng thức bữa cơm: cơm hầm, dái cừu chiên, dưa. Rõ ràng là Suliman đang cố gắng đánh giá trị ông khách: anh chàng lực sĩ này chắc chắn không là một dân Do Thái tầm thường đến đây vì một vụ không quan trọng. Sau cùng Suliman quyết định hỏi khách về lý do thăm viếng. Jossi báo cho chủ nhân biết rằng kể từ giờ dân vệ Do Thái sẽ tự lo lấy việc bảo vệ nông trường Rosh Pinna, cùng gởi lời cảm ơn Suliman đã bảo vệ chung thủy trước đây. Suliman tiếp nhận tin này không hề nháy con mắt duy nhất còn lại, và khi Jossi đưa tay ra để giao hảo bằng hữu, Suliman mỉm cười và xiết chặt bàn tay phải của khách.
Đến khuya, Jossi mới trở về trại Rosh Pinna và ngay lập tức triệu tập tất cả các dân trại tới họp. Chàng đã không lầm: việc loan báo thành lập các vệ quân được mọi người đón tiếp bằng những tiếng kêu sợ hãi. Tất cả đều tin rằng ngay khi nào có dịp, Suliman sẽ cắt cổ họ hết. Jossi phải hứa sẽ ở lại nông trại, họ mới yên lòng.
Ở cuối phòng, một thiếu nữ đã nghe và nhìn chàng chăm chú đam mê. Nàng là Sarah và vừa từ một thành phố nhỏ ở miền Silésie bên Ba Lan về đây. Jossi càng to lớn bao nhiêu thì nàng càng mảnh mai nhỏ bé bấy nhiêu, râu chàng càng đỏ hung bao nhiêu thì tóc nàng càng đen huyền bấy nhiêu. Buổi họp bế mạc, nàng như tình cờ đứng gần chàng. Chàng hỏi :
– Cô mới tới nơi này?
– Vâng.
– Tên tôi là Jossi Rabinsky…
– Tất cả mọi người đều đã được nghe nói về anh.
Đêm đó, hai người không đi xa hơn thế trong chuyện tình.
Jossi kéo dài thời gian lưu lại trại này tới một tuần. Chàng tin chắc thể nào Suliman cũng ra tay, nhưng chàng cũng biết lão Bédouin này khá mưu mô để biết chờ đợi thời cơ thuận tiện. Dẫu thế nào Jossi cũng không sốt ruột: tâm tư chàng mỗi lúc một tập trung vào Sarah. Nhưng sự hiện diện của thiếu nữ làm chàng đâm ra rụt rè và ít nói; nàng càng tỏ ra tinh nghịch, chọc ghẹo chàng bao nhiêu, chàng càng thu mình trong vỏ ốc bấy nhiêu. Tất cả dân cư trong nông trại đều biết Jossi Rabinsky đã yêu Sarah rồi, tất cả, trừ chính đương sự.
Ngày thứ tám, vào lúc nửa đêm, chừng chục người Ả Rập lẻn vào Rosh Pinna mang đi mấy trăm ký thóc. Jossi, đang phiên canh, thấy bọn chúng tới, lẻn vào vựa thóc rồi lại bỏ ra. Chàng có thể bắt quả tang nhưng cố dằn lại: đối với dân Bédouin, ăn cắp chỉ là một khinh tội mà thôi. Chàng có một kế hoạch hay hơn.
Sáng ngày hôm sau chàng nhảy lên ngựa làm một chuyến thăm viếng trại Suliman lần thứ hai. Lần chàng trang bị… ngọn roi da bò. Phóng nước đại, chàng tới thẳng lều của tướng cướp. Tên nô lệ người Soudan bước ra, cười ngọt ngào mời chàng vào. Bằng một cái bạt tai, Jossi đánh hắn ngã lăn ra đất. Chàng la lớn bằng giọng mạnh mẽ của mình :
– Suliman! Suliman mi hãy thò mặt ra đây!
Liếc mắt, chàng thấy khoảng mười tên Ả Rập không biết từ đâu xuất hiện, súng cầm tay, vẻ mặt ngạc nhiên lộ rõ.
– Ohé, Suliman! Mi trốn ở đâu?
Viên tù trưởng tiến ra một cách chậm chạp cố ý. Nắm tay lại đặt lên hông, môi nhíu lại trong một nụ cười đe dọa, lão dừng lại trước mặt khách chừng ba thước hỏi thủ hạ chung quanh :
– Không biết con dê ốm nào nó kêu be he quanh lều ta vậy cà?
Càc dân Bédouin cười phá lên. Jossi lờ họ đi để coi chừng từng cử chỉ của tên cướp già.
– Con dê ốm ấy tên là Jossi Rabinsky và nó tuyên bố rằng Suliman là một tên ăn cắp, lại thêm nói dối nữa.
Nụ cười trên môi Suliman biến thành cười khẩy. Xúm quanh thành nửa vòng tròn, các Bédouin sẵn sàng nhảy xổ ngay vào kẻ lạ kia ngay khi nào có hiệu lệnh của chủ tướng. Jossi nói tiếp, khinh bỉ :
– Mi còn chờ đợi gì nữa. Tại sao mi không kêu gọi tới các thuộc hạ trẻ tuổi của mi đi? Ta thấy rõ là danh dự của mi không bằng một con heo, can đảm của mi không hơn can đảm của đàn bà.
Không can đảm hơn đàn bà… lời chửi rủa độc địa nhất đối với một người Ả Rập… Ngoại trừ khi chịu mất mặt, Suliman phải chấp nhận lời thách thức của địch thủ. Lão hét lên, hai nắm tay đưa ra :
– Mẹ mày là đồ chó cái dơ dáy nhất thế giới!
– Nói tiếp đi, mụ già… tiếp tục lèm bèm đi.
Bị xúc phạm danh dự, Suliman rút một con dao găm bạc ra, hét lên một tiếng man rợ, lao về phía người khổng lồ đã khiêu khích lão.
Ngay lúc đó ngọn roi da vút lên… Ngay lập tức, Jossi lao tới sợi dây quấn chung quanh cổ chân lão Ả Rập, kéo bổng lên trời, ném ngã sấp xuống đất. Ngọn roi quất vào lưng Suliman mạnh đến nỗi tiếng đập vang dội vào các quả đồi chung quanh.
Đến ngọn roi thứ năm, tên cướp già xin hàng, kêu lên :
– Chúng ta là anh em! Chúng ta tất cả đều là anh em.
Jossi lùi lại một bước, nói :
– Suliman, cách đây một tuần, mi đã xiết tay ta để bảo đảm danh dự và bằng hữu với nhau. Thế mà lời nói này, mi đã không giữ. Ta long trọng báo cho mi biết: nếu mi, hay một thủ hạ của mi, còn đặt một chân lên các cánh đồng thôi, ta sẽ cắt mi ra từng mảnh bằng cái roi này, vứt xác cho chó rừng ăn.
Chàng quay lại đối diện với các Bédouin đang sững sờ. Không một kẻ nào có đủ can đảm nhúc nhích. Chưa bao giờ chúng trông thấy một người mạnh đến thế, táo bạo đến thế và giận dữ đến như vậy. Không thèm để ý đến mũi súng đe dọa, Jossi nhảy lên ngựa ra đi.
Bài học đã có hiệu lực: Suliman không bao giờ dám đụng tới các đồng ruộng của người Do Thái nữa.
Sáng ngày hôm sau, khi Jossi sắp sửa lên đường với toán quân của mình trên sườn ngọn Canaan, Sarah hỏi khi nào chàng định trở lại. Đỏ mặt, Jossi lúng túng nói một cái gì đại khái như: “Mỗi tháng một lần… gần như… cứ bốn hay năm tuần…”. Rồi chàng vội vã chào nàng, thúc ngựa ra đi. Vừa nhìn theo chàng, Sarah có cảm tưởng tim nàng sắp nổ vỡ tan tành. Không có một đàn ông nào trên thế gian bằng được người đó, không ai bằng đến gót chân chàng – dù kẻ đó là Do Thái, Ả Rập, Cosaque hay vua chúa đi nữa! Để cả đời, nàng cũng thấy chưa đủ để yêu và thán phục chàng!
Trong một năm liền, đứng đầu đoàn vệ quân, Jossi đã thành công việc mang lại bình an cho toàn vùng quanh núi Canaan. Đời sống của chàng không quá vui, cũng chẳng quá buồn. Nhưng trong các chuyến đi quanh vùng, chàng ưa thích nhất khúc phía bắc: chính ở phía bắc là nơi ông bạn Kammal ở, nơi có ngọn đồi từ đó nhìn xuống thung lũng Houleh. Chính cũng về phía bắc là nơi có Rosh Pinna, có Sarah, thiếu nữ xinh xắn, mắt đen lớn mà hình ảnh thường xuất hiện trong các giấc mơ của chàng. Khi chàng tiến vào nông trại này, chàng vươn mình ngồi thẳng trên yên, thúc cho ngựa chồm lên vì chàng biết có Sarah đang nhìn. Nhưng mỗi khi đứng trước mặt nàng, vẻ tự tin đẹp đẽ của chàng tan biến đi đâu mất hết, thay thế bằng một sự nhút nhát đến khôi hài.
Về phía Sarah, nàng phân vân. Tất cả cố gắng nàng đã thử làm để phá vỡ cái vỏ chàng đang thu mình vào đều không đi đến đâu. Ở Âu châu, trong thành phố nàng sinh sống, mọi sự sẽ rất giản dị: một người mối chuyên nghiệp, một nhân vật quan trọng trong ghetto, sẽ tới thăm phụ thân Jossi, và mọi sự sẽ ổn thỏa. Còn ở đây, Rosh Pinna, không có người mối mang gì cả, và cũng không có cả vị rabbin nữa.
Tình trạng như thế kéo dài hơn một năm cho tới một hôm, sau hết Jossi đã tìm thấy đủ can đảm, không phải để thổ lộ tình yêu – điều mà chàng không hề dám nghĩ tới – để tiến được lên một bước: vừa tới Rosh Pinna, Jossi đã hỏi xem nàng có muốn đi cùng chàng lên thung lũng Houleh ở phía bắc nông trại không. Sarad không đợi chàng mờ tới lần thứ nhì. Cưỡi ngựa song song nhau, họ vượt qua Abou Yesha, tiến vào vùng đồi. Con đường mòn ngừng lại ở một mỏm đồi, Jossi biết rất rõ. Chàng nói nhỏ :
– Tôi đã vào xứ Palestine qua đúng chỗ này đây, lâu rồi.
Đối với Sarah, vài lời nói ấy là quá đủ. Khi nhìn chàng đứng ngắm thung lũng, nàng hiểu chàng yêu miền đất này đến như thế nào. Im lặng, họ nhìn cảnh vật bao la. Một đôi lứa bề ngoài thật là khác nhau: một chàng trai vĩ đại, vẻ ngoài dữ tợn, một cô gái mảnh mai chỉ cao chưa tới nửa ngực chàng.
Đột nhiên Sarah cảm thấy một tình tự nồng nhiệt như thúc đẩy nàng về phía Jossi. Bởi vì chàng chỉ tìm thấy mỗi cảnh này thôi để bày tỏ với nàng ước mong quý giá nhất… Sarah thì thào:
– Anh Jossi, Jossi Rabinsky, anh có nhận… ô, xin anh… anh có nhận lấy em làm vợ anh?
Chàng phải hắng giọng trước khi bập bẹ thốt ra lời :
– À… tôi… em… lạ thật! Tôi cũng đang định hỏi em điều đó….

Chưa bao giờ, trong khắp xứ Palestine người ta được thấy một đám cưới như vậy. Các quan khách từ các miền xa nhất của Galilée đến, và có những người tới từ Jaffa, mặc dù xa cách đó tới hai ngày đường. Yakov đến cùng đoàn vệ quân, các người khẩn hoang ở Rosh Pinna đến cùng nhiều effendi người Thổ, Kammal đến đã đành mà ngay cả lão già Suliman khốn kiếp ấy cũng tới nữa. Cả một đám đông quan khách chứng kiến cô dâu chú rể tiến vào dưới chiếc lọng lớn, trao đổi các lời kết ước và uống rượu thánh. Có đủ thức ăn đẩ cho cả một đạo quân, các vũ điệu, bài ca, tiếng cười kéo dài tới một tuần lễ.
Sau khi người quan khách cuối cùng đã ra về, Jossiđưa Sarah về lều của hai người trên sườn núi Canaan.
Tuần trăng mật của họ ngắn ngủi. Tổ chức trung ương của phong trào phục quốc kêu gọi Jossi gấp để điều khiển ở Jaffa một cơ sở cố vấn cho các di dân nào muốn lập nghiệp ở miền quê. Thẩm quyền chàng có trong địa hạt này cùng sự am hiểu hoàn toàn xứ sở làm chàng hoàn toàn thích hợp với nhiệm vụ này.
Một thời gian sau, năm 1909, mọi người tham khảo chàng về một vụ hết sức quan trọng. Cộng đồng Do Thái ở Jaffa lớn mạnh đều đều và mọi người muốn có các nhà ở tiện nghi hơn, các điều kiện sinh hoạt phù hợp với vệ sinh cùng các hoạt động văn hóa.
– Những tiện nghi mà thành phố Ả Rập cũ không thể mang lại được. Jossi là một trong những người đề xướng và thực hiện kế hoạch mua một dải đất phía bắc Jaffa, một nơi nhiều cát và chỉ có một vài trại cam nhỏ.
Chính từ nơi này đã nảy sinh thành phố đầu tiên hoàn toàn là Do Thái kể từ hai ngàn năm nay. Mọi người đã tìm ra tên đặt cho đô thị này: Đồi Xuân, gọi theo tiếng hébreu là: Tel-Aviv [1].
————————————
[1] Nay là thủ đô của quốc gia Israel.

Phần 2 – 7

Việc thất bạl hoàn toàn của các nông trường đã tạo ra một tình trạng thê thảm. Mặc dù sự nhập nội các người trẻ và lòng hăng hái gia tăng đáng kể, xứ này vẫn chưa ra khỏi được tình trạng điêu tàn mà hai em Rabinsky đã thấy cách đây hai mươi năm.
Đã từ lâu rồi, Jossi cùng vài chiến hữu đã ý thức được cụ thể ra, không thể nào khai thác tốt các trại cá nhân được. Các khó khăn rất nhiều: vấn đề an ninh vấn đề dốt nát của người Do Thái trong địa hạt canh tác, và nhất là tình trạng của đất đai đã bị bỏ hoang từ thế kỷ.
Hiển nhiên vấn đề bây giờ phải làm sao thoát ra được tình trạng hỗn loạn ấy: nghĩa là phải thành lập các làng mà dân đinh tự mình canh tác lấy, lập chế độ trồng tỉa đa loại để có thể tự túc về thực phẩm, và đủ khả năng bảo vệ chính mình bằng các phương tiện cố hữu. Hậu quả là tổ chức phục quốc Do Thái phải là sở hữu chủ của tất cả đất đai, và chỉ cho phép lập nghiệp những ai cam kết sẽ tự mình canh tác lấy, vậy không được mướn nhân công Do Thái hay Ả Rập.
May mắn thay một số di dân trong đợt hai lại sẵn sàng làm việc cho sự khẩn hoang xứ sở, không tìm bất cứ một lợi lộc cá nhân nào. Một quan niệm báo hiệu trước sự thành lập của các nông trường tập thể về sau cùng. Ưu điểm đáng nhấn mạnh là: các trại tập thể đó không hề là hậu quả của một ý thức hệ hay một cương lĩnh xã hội nào mà chỉ là kết quả của một nỗ lực sáng suốt để cứu vãn công cuộc phục quốc. Phương cách duy nhất để sống còn trong một xứ đang hấp hối.
Bây giờ, cần phải thí nghiệm. Năm 1909, tổ chức Trung ương phục quốc đã mua một vùng đất rộng ở phía nam Tiberiade, chỗ cửa sông Jomdrin chảy vào biển Galilée. Một ít cát với rất nhiều đầm lầy. Mọi người chỉ định hai mươi thanh niên và thanh nữ lo việc khai hoang, cấp cho ngân khoản và thực phẩm một năm, cùng đồ trang bị và tiền mặt. Jossi đi cùng với họ, giúp họ cắm lều dọc theo các đầm. Nông trường tương lai này sẽ mang tên là Shoshanne (sậy) để kỷ niệm loại cây đã tạo thành cả một khu rừng ven các hồ.
Họ khởi đầu bằng cách xây cất ba nhà lớn: một dùng làm nhà ăn, một dùng làm kho, và một dùng làm phòng ngủ cho mười sáu đàn ông và bốn phụ nữ.
Trong mùa đông thứ nhất, các tòa nhà bị bão rung chuyển, bị lụt soi mòn, đã sụp đổ cả chục lần. Các đường lộ biến thành các con sông bùn nên họ bị cô lập với thế giới bên ngoài nhiều tuần lễ liền. Sau cùng, các người khai hoang phải rút vào một làng Ả Rập trú ẩn đợi mùa trở lại.
Đến mùa xuân, họ có thể bắt đầu làm việc. Công cuộc khai hoang có vẻ như vượt ngoài sức con người: phải đẩy lùi các đầm lầy từng bước một. Mọi người trồng hàng trăm cây khuynh diệp Úc để chúng hút cho khô nước ướt sũng, phải đào bằng sẻng các mương dẫn thủy. Đàn ông và đàn bà làm việc quần quật từ rạng đông cho tới khi trời tối, và thường thường thì một phần ba tổng số phải nằm liệt giường vì sốt rét. Để chống lại, họ dùng phương pháp Ả Rập (họ chẳng còn biết phương pháp nào khác): trích máu ở hai trái tai. Dưới ánh mặt trời khắc nghiệt về mùa hè, họ còng lưng xuống bùn ngập tới ngang lưng hôi thối mà làm việc.
Sau hai năm, họ đã có thể tự hào về thành quả đầu tiên: Một vài khoảng đất – ta chưa có thể gọi là cánh đồng – đã được làm cho khá khô nước. Bây giờ, các con lừa phải kéo những tảng đá đi trong khi các đàn ông đốn cây và cắt các bụi rậm. Vài tháng nữa là có thể nghĩ đến, việc gieo hạt. Giây phút gay go đã tới: hầu hết mọi người trong nhóm chưa biết phải trồng gì và trồng ra làm sao. Họ đều phải vất vả lắm mới phân biệt được một con gà mái với một con gà trống. Họ đành phải thử vậy, và vì lầm lẫn, họ thường thu hoạch được những hoa mầu làm họ chưng hửng ngạc nhiên. Họ không biết gieo hạt cũng như không biết bừa cho thẳng hàng, họ chưa từng bao giờ vắt sữa một con bò hay trồng một cái cây. Đối với họ, đất là cả một bí mật vĩ đại.
Dầu vậy họ phải giải quyết cả ngàn vấn đề canh tác với tinh thần quyết thắng như khi họ tìm cách chiến thắng các đầm lầy. Sau khi dẫn thủy xong các nước tù, bây giờ phải lo dẫn thủy nhập điền. Lúc đầu, họ chuyển nước từ sông vào bằng lừa. Rồi họ làm một thí nghiệm không mấy thành công với một máy đập nước kiểu Ả Rập, rồi kế đó, họ đào các giếng. Sau cùng, họ mở các hố điều thủy và xây cất cả một hệ thống đập để giữ nước mùa đông tràn xuống.
Dần dần, đất không còn là bí mật đối với họ nữa. Trong những chuyến thăm viếng xảy ra khá thường, Jossi hết sức thán phục lòng can trường của những kẻ khẩn hoang ở Shoshanna. Những thanh niên thanh nữ này chỉ có những gì họ mang trên người, và ngay cả những áo và quần bằng vải thô ấy cũng thuộc về cộng đồng trại. Thực phẩm của họ giản dị khắc khổ, và nơi ngủ của họ chỉ là căn nhà vách ván bào không kỹ. Nhưng họ thì có một tinh thần sắt thép.
Từ các vùng chung quanh, Ả Rập và Bédouin quan sát những tiến triển chậm chạp của nông trại với các cặp mắt không thể tin nổi. Khi các Bédouin nhận thấy diện tích đất đai canh tác đã được tới mức hai trăm hectare, chúng quyết định sua đuổi những người Do Thái đi.
Kể từ ngày đó, các người khai hoang chỉ có thể làm việc bên ngoài dưới sự che chở của vũ khí. Ngoài vấn đề bệnh tật và lao lực, lại còn thêm vấn đề muôn thủa là an ninh nữa. Đàn ông, đàn bà, sau một ngày làm việc ngoài đồng lại còn đành phải thay phiên nhau gác suốt đêm nữa. Mặc dù cô lập, họ tiếp tục bám chắc, mặc dù sự ngu dốt căm thù cùng các đe dọa của người Ả Rập, mặc dù sức nóng giết người, sốt rét, và cả mười thứ thiên tai thảm họa khác nữa, họ vẫn bám chắc lấy Shoshanna.

Rồi tới một ngày đó, họ tới nông trại thấy hai người mới tình nguyện gia nhập nữa. Một người là Yakov Rabinsky, một người là Joseph Trumpledor, cựu sĩ quan của quân đội Nga hoàng, anh hùng của trận Nga Nhật đại chiến – trong trận đó ông đã cụt một tay. Chính vì tiếng kêu gọi của chủ nghĩa phục quốc Do Thái đã đưa ông tới Palestine, và gương hy sinh vì lý tưởng đã đưa ông tới Shoshanna. Nhờ ở dự trả đũa có tổ chức của hai tay chuyên viên đập lộn này, các vụ đột kích của dân Bédouin giảm dần rồi sau cùng hết hẳn.
Tuy vậy đời sống cộng đồng đặt ra nhiều vấn đề hơn là các tay khai hoang đã tưởng. Nguyên tắc cai trị dân chủ khó hòa hợp được với tinh thần độc lập truyền thống của người Do Thái cùng lòng khoái bàn cãi quá mức của họ. Sự phân công, các vấn đề vệ sinh, giáo dục đều là các khó khăn phải giải quyết cả. Chưa kể đến các xích mích cá nhân không thể tránh được trong một lối sống chung chật chội suốt ngày.
Nhưng dẫu thế nào dân ở Shoshanna cũng có được một điểm chung: thù ghét tất cả những cái gì xưa kia có thể làm cho họ thành dân Do Thái ghetto. Bởi vì họ đã khổ công để xây dựng một tổ quốc mới, họ còn ngại gì mà không phá hủy, nhổ sạch, bôi xóa đến tận kỷ niệm về thời kỳ thê thảm ghê khiếp ấy. Đến nỗi rằng Shoshanna có một nền đạo đức riêng, luật lệ riêng. Kể từ giờ hôn nhân sẽ thành hình – hoặc tiêu hủy – tùy theo sự thỏa thuận của hai vợ chồng. Các tục lệ cổ xưa trước đây đã gây ra bao chướng ngại cho cuộc đời, đều bị hủy bỏ trong mọi địa hạt. Chính vì thế, từ lòng khiếp sợ đàn áp kinh niên và lòng ao ước tự do, đã nảy sinh ra một giai cấp mới, một giai cấp nông dân Do Thái ý thức rõ và kiêu ngạo về giá trị của mình. Họ ăn mặc như nông dân, nhảy điệu hora quanh ánh lửa trại. Họ chẳng trở về với đất để làm cao quý nghề nông hay sao? Chưa chi những luống hoa, những cây cảnh, những bãi cỏ đã xuất hiện chung quanh những căn nhà nhỏ cho các cặp vợ chồng, thành lập một thư viện, và mướn y sĩ tới tận nhà.
Chính giữa các hoạt động có trật tự ấy đã bùng ra cuộc nổi dậy của phụ nữ. Của một phụ nữ là đúng hơn. Ruth một cô gái khỏe mạnh nhất và xấu nhất trong bốn người con gái khai hoang. Một cô gái có miệng lưỡi rất sắc, và nàng đã xử dụng đến nó để tuyên bố trong các buổi họp của cộng đồng là các phụ nữ không lao đầu vào cuộc phiêu lưu di cư ấy để rồi lại trở thành tôi tớ cho đàn ông. Hăng hái, khéo léo, Ruth đã thành công trong việc làm giảm bớt những cấm đoán ngày xưa, đến nỗi rằng sau vài tháng, tất cả phụ nữ đều tham dự vào tất cả mọi công việc, kể cả việc cày bừa. Đòi hỏi trách nhiệm, họ độc chiếm chuồng gà vịt và vườn rau, học xử dụng súng và nhận phiên gác đêm.
Tuy thế, Ruth chẳng những không bằng lòng với các chiến thắng như thế, nàng còn nuôi những tham vọng lớn hơn. Mục tiêu lớn của nàng là kiểm soát năm con bò sữa, thành phần gia súc chính của trại. Nhưng lần này, đàn ông nhất định không chịu thua. Mấy cô này hẳn đã tiến xa quá lố rồi! Yakov, kẻ hăng hái xông xáo nhất trong giới đàn ông, được cử ra để thuyết phục Ruth nên biết điều. Nàng phải biết bò cái là một con vật nguy hiểm không thể trao phó cho nữ nhi yếu liễu đào tơ chứ! Chưa kể sự kiện đàn gia súc này là niềm kiêu hãnh của nông trường, của cải quý nhất của nông trường, tất nhiên việc coi sóc đương nhiên phải thuộc về các chủ nhân mà Thượng đế đã sáng tạo ra là… đàn ông.
Trước sự ngạc nhiên của toàn thể, Ruth nhượng bộ dễ dàng. Trong một tháng liền, nàng tránh bàn cãi vấn đề tế nhị này. Ngược lại, nàng lợi dụng tất cả mọi cơ hội để chạy đến làng Ả Rập gần nhất để học hỏi nghệ thuật vắt sữa. Và trong những lúc nhàn rỗi hiếm hoi, nàng nghiến ngấu đọc tất cả những sách báo về kỹ thuật sữa mà nàng tìm thấy ở thư viện.
Một buổi sáng nọ, Yakov khi đi tuần tiễu về, không hiểu sao lại nghĩ tới chuyện liếc vào chuồng bò một cái. Điều này chàng bắt gặp quả tang Ruth đang vắt sữa Jézabel, con bò cái đẹp khỏe nhất trong năm con!
Ngay ngày hôm đó, một phiên họp đặc biệt được triệu tập để xử vụ bất phục tùng của thiếu nữ. Như ta có thể đoán được, lời kết án bị nàng “quạt” bay đi hết. Trang bị những bảng so sánh và các biểu đồ, nàng đã chứng tỏ hai năm rõ mười là nàng đang làm gia tăng mức sản xuất sữa. Dĩ nhiên là muốn đạt được gia tăng ấy, mà các đàn ông rõ ràng và hoàn toàn là không có khả năng. Nàng nói nhiều và nói hay đến nỗi các đàn ông sau hóa ngượng nghịu và ăn năn, để rồi sau cùng chính thức trao phó luôn cho nàng coi sóc đàn gia súc.
Đàn ông không bao giờ hối tiếc về quyết định này hết. Vài năm sau, Ruth, đứng đầu một đàn bò một trăm hai mươi lăm con, đã được vào loại những tay chăn nuôi giỏi nhất Palestine.
Đã xảy đến cái gì phải xảy đến: Ruth và Yakov lấy lấy nhau. Tất cả mọi người đều tán đồng hôn nhân này: Ruth chàng phải là kẻ duy nhất trên đi thế gian này có thể làm Yakov phải im tiếng hay sao? Hiển nhiên đó phải là một đám cưới vì tình rồi…
Do đó, sau cùng Yakov cũng thoát được niềm chua chát của mình để tìm kiếm hạnh phúc. Chàng không có một gia sản nào cả, và chàng cũng chẳng thể coi là độc quyền sở hữu những áo quần chàng mặc, vì đó cũng là tài sản của cộng đồng. Ngược lại, chàng có một người vợ linh hoạt, nhanh nhẹn, miệng lưỡi sắc bén, và cả xứ Galilée kính nể. Buổi chiều, sau một ngày làm việc mệt nhọc, khi chàng cùng Ruth đi dạo giữa các bãi cỏ, trong vườn trồng cây ăn trái hay qua những cánh đồng xanh tốt, chàng cảm thấy một tình tự bình an mà chàng chưa từng bao giờ cảm thấy.
Shoshanna không ngừng phát triển. Nông trường bây giờ đã có tới cả trăm dân đinh. Các cánh đồng và vườn tược đã chiếm hơn một ngàn mẫu. Kibboutz đầu tiên của Palestine hầu như đã mang lại được lời giải đáp cho vấn đề căn bản của chủ nghĩa phục quốc Do Thái.

Phần 2 – 8

Tối hôm đó, Jossi có về nghiêm trọng hơn thường nhật. Ngồi cạnh Sarah trên bao lơn căn nhà ba phòng xinh xắn, chàng im lặng ngắm bờ biển Địa Trung Hải giữa Tel-Aviv dưới chân chàng và Jaffa ở phía xa. Đột nhiên chàng nói :
– Nghe này em, anh vừa có một quyết định. Vừa rồi đây, mọi người yêu cầu anh lấy một tên bằng tiếng hébreu và chỉ nói tiếng hébreu thôi.
Sazah kêu lên :
– Chuyện gì kỳ quá! Chính anh đã có lần nói rằng không bao giờ người ta có thể làm sống lại một từ ngữ.
– Quả anh có nói thế. Anh cũng còn đã từng nghĩ rằng không bao giờ một dân tộc có thể làm sống lại quốc gia đã mất của mình. Dầu vậy, đó là điều chúng ta đang làm. Khi anh nghĩ tới sự phát triển tuyệt đẹp của Shohanna và các Kibboutzim khác…
Nàng ngắt lời :
– Chính em đang muốn nói về Shoshanna… Em đánh cá là anh muốn lấy một tên hébreu chỉ vì em trai anh đã làm như vậy. Bây giờ chú ấy tên là gì?
– Akiba. Để tưởng nhớ đến thần tượng của chú ngày xưa.
– Mong rằng thần tượng hồi nhỏ của anh là Bismark. Thật thú vị khi có chồng, chồng lại mang tên Tể tướng Đức quốc.
Chàng la :
– Quả thực chịu không nổi em đó. Đôi khi tự anh hỏi không biết em về Palestine làm gì. Nếu chúng ta phải học suy tưởng như chúng ta đã có một quốc gia, chúng ta cũng phải học nói quốc ngữ của chúng ta.
– Đó là điều chúng ta đang làm. Bởi vì chúng ta nói tiếng Yiddish…
Chàng phản đối :
– À, không. Chỉ những kẻ lưu đày, những kẻ ở ghetto mới nói Yiddish. Những người Do Thái Palestine, tất cả những người Do Thái đã trở về quê hương đều nói tiếng hébreu.
Tinh nghịch, nàng chọc ngón tay trỏ vào ngực ông chồng vĩ đại :
– Thôi xin bồ đừng có kể cho tôi nghe các khẩu hiệu mới nhất của phong trào phục quốc của Do Thái nữa. Đối với tôi, bồ cũng là Jossi Rabinsky.
– Em lầm rồi, Sarah. Dầu sao thì anh cũng quyết định rồi. Tốt nhất em bắt đầu học ngay hébreu: kể từ giờ chúng ta chỉ nói chuyện với nhau bằng thứ tiếng này mà thôi.
– Quyết định của anh hoàn toàn khôi hài!
Hai người đều giữ vững lập trường, thế là chiến tranh bùng nổ. Trong ba tuần lễ liền, Sarah cấm chồng không được vào phòng ngủ. Chàng phải đối lại bằng cách chỉ nói bằng hébreu. Dĩ nhiên là không trả lời bằng Yiddish.
Dầu thế, một buổi tôi nàng mở cửa phòng gọi :
– Anh Jossi! Lại giúp em một chút…
– Xin lỗi em, ở đây không có ai tên là Jossi hết. Nếu em nói với tôi thì tên tôi là Barak Ben Canaan.
– Cái gi? Anh nói sao?
– Em thừa hiểu anh nói gì rồi. Anh đã nghĩ rất lâu để tìm một tên hợp với anh. Theo tiếng hébreu, Barak nghĩa là “chớp”, dân Ả Rập gọi roi da của anh như vậy đó. Và anh lấy họ là Canaan bởi vì anh trên núi Canaan…
Sarab đóng sập cửa trước mũi chàng. Trong suốt một tuần lễ, hai địch thủ đối đầu nhau trong im lặng.
Một đêm, khi cuộc tiểu chiến đã kéo dài cả tháng rồi, Barak trở về nhà sau một buổi họp hết sức mệt nhọc. Đại hội đồng phục quốc nhóm họp ở Jérusalem. Đại hội đã kéo dài ba ngày – ba ngày bàn cãi ác liệt và thảo luận say mê. Mệt nhoài, Barak đã hy vọng Sarah sẽ chờ chàng về, pha cho một ly trà và nói chuyện cùng chàng. Nhưng Sarah đã vào phòng ngủ nằm, cửa phòng đóng kin. Chàng thở dài, tháo giày, nằm co quắp trên chiếc divan ở phong khách quá ngắn cho một người cao lớn như chàng. Chàng bắt đầu thiếp đi khi một làn sáng lọt qua kẽ mi. Đi rón rén trên đầu ngón chân, Sarah lướt nhẹ đến divan, quỳ xuống đặt đầu lên ngực chàng và thì thào bằng hébreu :
– Em yêu anh, Barak Ben Canaan. Em yêu anh biết bao.
Trở thành một trong những lãnh tụ được mọi người nghe theo nhất của phong trao phục quốc, Barak Ben Canaan phục vụ không tiếc công sức, đảm nhiệm song phương các công tác tổ chức và điều đình bao giờ cũng tế nhị với các nhà cầm quyền Thổ và các cheik [1] Ả Rập. Rất nhiều lần, có Sarah đi cùng, chàng sang Luân Đôn, nơi đặt cơ quan đầu não của phong trào phục quốc, hay sang Thụy Sĩ dự các buổi hội họp quốc tế. Tuy thế, chàng không tìm được niệm hạnh phúc mà em chàng, Akiba, đã tìm thấy ở Shoshanna. Ước vọng lớn của chàng – lập nghiệp ở phía bắc ngọn Canaan, trong thung lũng Houleh – vẫn chưa được thỏa mãn. Rất buồn vì thấy chồng tiếc nuối như thế, Sarah hết sức muốn mang lại cho chàng một bù trừ sinh con. Nhưng tạo hóa đã khước từ không cho nàng hưởng niềm vui này: trong năm năm liền, nàng sẩy thai liên tiếp.
Thất vọng này lại càng cay đắng hơn nữa vì Bark đã tới tuổi bốn mươi lăm…
Trong thời gian đó, các biến cố chính trị xảy ra dồn dập. Năm 1908, cuộc nổi dậy của Giới Trẻ Thổ đã truất phế Abd Ul Hamid II, một ông vua già thối nát, để thay thế bằng Mohammed V. Vụ thay bậc đổi ngôi này đã làm cho sự hy vọng của người Do Thái Palestine sớm bị tiêu tan: Thừa hưởng một đế quốc lung lay, Mohammed không hề muốn ban cho xứ Palestine một qui chế tự trị, bảo đảm cho sự hiện hữu hợp pháp và một đường lối chính trị của một quốc gia Do Thái. Ngược lại, Anh quốc tiếp tục biểu lộ một cảm tình sâu đậm với chính nghĩa Do Thái. Đến nỗi, đối với các người trong phong trào phục quốc cùng phát ngôn viên của họ là bác sĩ Chaim Weizmann, con đường phải theo coi như đã được vạch rõ: giữa Thổ Nhĩ Kỳ, “con bệnh của Âu châu”, khước từ tất cả mọi trợ giúp, còn Anh quốc, địa vị tại Trung Đông mỗi ngày một thêm vững chắc, nên họ chọn lựa Anh quốc.
Dầu thế nào đi nữa, sự sụp đổ toàn diện của Đế quốc Thổ chỉ còn là vấn đề thời gian.
Lúc đó, đệ nhất thế chiến xảy ra.
Các quốc gia đồng minh Âu châu, sốt ruột muốn chia xẻ các mảnh đất của Thổ ở Âu châu, đã bực tức và ngạc nhiên khi nhận ra Đế quốc Thổ chẳng những không sụp đổ, mà còn tỏ ra là một địch thủ đáng kể nữa. Quân Nga bị chặn đứng ở biên thùy Caucase. Tại Trung Đông, quân Thổ khởi hành từ các vị trí của mình tại Palestine, đã vượt sa mạc Sinai để tiến đến kênh Suez, mạch máu chính của Đế quốc Anh.
Cuống lên, người Anh xúi dục dân Ả Rập nổi loạn hứa sẽ cho họ độc lập để đổi lại sự ủng hộ chống lại Thổ. Nhưng dân Ả Rập lại muốn chờ xem gió quay chiều nào đã. Và dân Ả Rập cũng không thèm nghe những lời kêu gọi điên cuồng của Mohammed V, lãnh tụ tinh thần thế giới Hồi giáo, đã tuyên bố thánh chiến chống lại Anh quốc. Luân Đôn đành bỏ tiền ra tìm cách mua chuộc kẻ địch vậy. Và Anh lại đóng vai trò truyền thống là làm mồi. Con cá cắn lưỡi câu lần này rất to: émir [2] của La Mecque, “kẻ coi giữ các Thánh địa của Hồi giáo”, con người nhiều tham vọng đã thấy mở ra trước mặt mình những viễn ảnh huy hoàng. Sự chấm dứt triều đại Mohammed V cùng dân Thổ phải chăng sẽ cho phép ông mở rộng quyền bính ra toàn thế giới Ả Rập chăng? Chưa kể một nửa triệu đồng livre bỏ túi đã…
Vậy là vị émir bước sang hàng ngũ Anh, hứa sẽ xúi dục các bộ lạc trong sa mạc nổi dậy chống lại Thổ. Trong nhiệm vụ này, ông được người con phụ tá, đó là Faycal, một trong những lãnh tụ Ả Rập hiếm có, Faycal có ý thức về xã hội và trí xét đoán của một chính khách.
Còn về những dân Do Thái ở Palestine, Anh quốc khỏi cần phải mua chuộc. Sự ủng hộ của họ coi như là có rồi. Và họ ủng hộ mạnh đến nỗi ngay lúc chiến tranh mới bùng nổ, họ đã công khai đứng về phía Anh quốc, kẻ thù của Thổ.
Sự trả đũa của Thổ xảy ra ngay lập tức: Kemal Pacha, được bổ nhiệm làm Thống đốc tỉnh Palestine, quyết định khủng bố toàn diện cộng đồng Do Thái.
Barak Ben Canaan được báo tin vào giờ chót là chàng và Akiba nằm trong sổ đen của Mật vụ Thổ: điều đó có nghĩa là sẽ bị giết. Chàng chỉ còn tối đa sáu giờ đồng hồ để chạy trốn. Chưa chi tổ chức địa phương của phong trào phục quốc đã bị dẹp bỏ. Sarah hỏi :
– Chúng ta còn bao nhiều lâu?
– Chúng ta phải ra đi trước khi trời sáng. Em thu xếp ngay một va-li thôi, đừng lớn quá. Chúng ta phải bỏ lại tất cả.
Dựa lưng vào tường, nàng máy móc đưa tay xoa bụng. Có mang sáu tháng rồi, nàng cảm thấy cai thái cựa quậy rõ rệt hơn các lần mang thai trước. Nàng nghĩ: “Năm lần sẩy rồi, và bây giờ…”
– Em không muốn đi. Không thể được… Em không thể…
– Sarah! Không phải lúc.
Nàng rời tường để lao vào vòng tay chàng.
– Anh Barak, hiểu cho em…. em không muốn mất đứa con này… em không thế nào chịu nổi…
Chàng thở dài.
– Em không thể nào ở lại đây được đâu, Sarah. Nếu tụi Thổ đến bắt em… anh không muốn tưởng tượng đến những gì xảy đến cho em.
– Nếu em chạy theo anh, em không thế nào giữ cái thai này được. Con của chúng ta, anh!
Chàng gỡ tay nàng ra, rồi chậm chạp cột lại cai túi đi đường.
– Hứa với anh là em lập tức lên đường đi Shoshanna. Ở đó, thím Ruth sẽ chăm sóc em. Nhớ đừng có lại quá gần những con bò cái yêu quý của thím ấy!
Chàng hôn nàng và Sarah nhót gót lên để bám được vào vai chồng.
– Shalom, Sarah. Anh yêu em.
Chàng quay nhanh người lại, và từ giã.
Akiba và Bark chạy trốn sang Le Caire, nơi ông bạn Trumpeldor, người chiến binh cụt tay, đang thành lập một đơn vị Do Thái gốc Palestine. Sau này, tiểu đoàn này đã tham dự vào cuộc đổ bộ của Đồng Minh vào Gallipoli cùng cuộc mở đường thất bại qua eo biển Dardanelle. Trong khi rút lui, Akiba bị một viên đạn vào ngực. Được đưa trở về Ai Cập và tiểu đoàn sau đó bị giải tán. Akiba và Barak lên đường đi Luân Đôn, nơi một đoàn viên phục quốc khác tên là Jobotinsky đang mộ người Do Thái tình nguyện để lập một đạo quân quan trọng hơn. Nhưng cả hai anh em đều không được tham dự vào đơn vị mới này: Akiba, vết thương lâu lành lại được gửi sang Hoa Kỳ đi thuyết trình. Còn Barak, hữu ích gì để làm người bộ binh tầm thường, nên tiến sĩ Weizmann đưa chàng vào trong ê-kíp lo các vụ thương thuyết về chính trị.
Quân Anh lúc đó vừa bị một loạt thất trận nghiêm trọng tại Trung Đông. Tướng Maud, sau khi đã chiến thắng “oai hùng” vài đơn vị Thổ gồm toàn dân Ả Rập, đã chạm phải cả một sư đoàn Thổ và đơn vị này đã đánh đơn vị ông tan tành. Lúc bây giờ, tại phía Nam quân Thổ đe dọa trực tiếp kênh Suez; và ở Âu châu, quân Đức đã đánh tan đạo quân Nga ở tuyến đầu!
Còn về giấc mơ của Anh là có một cuộc nổi dậy của Ả Rập chống lại Đế quốc Thổ, chưa bao giờ lại có thể khó như lúc này. Quả thực vậy, người Ả Rập nghi ngờ Luân Đôn và Ba Lê đang bí mật chuẩn bị một thỏa ước chia đôi thế giới Hồi giáo giữa hai cường quốc đó!
Chaim Weizmain ý thức rằng phong trào phục quốc Do Thái phải khai thác tình hình trên để tiến một bước quyết định. Chưa bao giờ Anh quốc lại cần trợ giúp và ủng hộ đến như vậy. Một mặt khác, chính phong trào phục quốc cũng tìm một phương cách để lôi cuốn những người Do Thái cư ngụ tại các nước khác, nhất là Hoa Kỳ; vào phong trào chung.
Bởi thế, sau một thời kỳ thương thuyết gay go, Lord Balfour, Tổng trưởng Ngoại giao Anh quốc, gửi cho Lord Rothschild một bưu điệp trong đó ông nói ;
Chính phủ của Đức Vua đang cứu xét một cách thuận lợi việc thành lập ở Palestine, một quốc gia cho dân tộc Do Thái, và sẽ cố gắng dành mọi sự dễ dàng cho việc thực hiện dự án này.
Phong trào phục quốc Do Thái sau cùng, có được Đại Hiến Chương của mình!

——————————————–
[1] Cheik: tù trưởng Ả Rập
[2] Émir: tiểu vương Ả Rập (xem 14)

Phần 2 – 9

Mật vụ của Kemal Pacha khám phá ra nơi trú ẩn của Sarah Ben Canaan hai tuần trước ngày nàng sinh. Không thèm để ý tới tình trạng thai nghén, chúng bắt nàng lúc nửa đêm, đẩy vào trong một xe bít bùng, đưa đến đồn cảnh sát Tibériade..
Cuộc thẩm vấn đầu tiên kéo dài hai mươi bốn giờ không một phút nghỉ.
– Chồng bà trốn nơi nào? – Hắn đã làm thế nào để chạy thoát được? Bà liên lạc với hắn bằng cách nào? – Bà do thám chúng tôi cho tụi Anh – đừng cãi vô ích chúng tôi biết rõ hết… Ai là những người cung cấp tin tức cho bà trong vùng?
Không hề bối rối, Sarah nhận Barak đã trốn vì những cảm tình thân Anh, những cảm tình từ trước đến giờ chàng cũng không bao giờ giấu diếm. Nàng ở lại xứ Palestine chỉ cốt đợi đứa con ra đời. Còn về lời kết án làm gián điệp nàng phủ nhận hoàn toàn trước sự giận dữ của thanh tra điều khiển cuộc thẩm vấn. Sau hai mươi bốn giờ thẩm vấn này, Sarab rõ ràng là người trầm tĩnh nhất trong văn phòng nhỏ bé ấy.
Nhưng nàng không thoát thân dễ dàng được. Mọi người lôi nàng sang phòng bên cạnh. Trong phòng một ngọn đèn dầu với khói đen bám vào, được treo trên trần, lắc lư phía trên một cái bàn bằng gỗ trắng. Bị năm cảnh binh đè ngửa ra giữ chặt, tên thứ sáu tháo giày nàng ra. Rồi thay phiên nhau, chúng lấy roi gân bò đánh vào gan bàn chân. Và những câu hỏi cũ lại được nhắc lại, nhưng lần này kèm với những lời chửi rủa và đe dọa.
– Mày liên lạc với Barak Ben Canaan theo cách nào? – Những cán bộ tình báo trong hệ thống của mày là những ai? Tên họ của chúng là gì? Các địa điểm gặp gỡ ở đâu?
Nỗi đau đớn rất ghê khiếp. Sarah đau quá không thể nói được nữa. Mồ hôi tầm tã, hàm răng xiết chặt, nàng kìm được những tiếng kêu rên. Lòng can đảm của nàng làm tụi Thổ điên giận hơn nữa. Chúng đánh mạnh gấp đôi: chưa chi chân nàng đã bị rách nát và máu ứa ra.
– Mi có nói không, con Do Thái bẩn thỉu này! Nói đi thú đi, đàng nào rồi mi cũng chết!
Nàng ngất đi và bị đổ cả một thùng nước vào mặt cho tỉnh. Tỉnh rồi, đòn tra tấn và các câu hỏi lại tiếp tục. Nàng lại xỉu nữa và rồi lại tỉnh dưới làn nước lạnh giá. Các cảnh binh đổi phương pháp, kéo dang hai tay nàng ra, nhét đá nóng bỏng vào dưới nách. Và các câu hỏi lại tiếp tục với các lời chửi rủa la hét…
Chúng tra tấn nàng trong ba ngày ba đêm liên tiếp. Nàng không hé răng. Sau cùng, thán phục lòng can đảm ấy, chúng thả nàng ra. Ruth, trong suốt thời gian ấy đã cầu khẩn biện hộ cho Sarah ở bên ngoài, đưa chị dâu lên một chiếc xe do lừa kéo về Shoshanna.
Chỉ mười ngày sau, khi cảm thấy cơn đau đẻ đầu tiên, Sarah mới để cho sự đau đớn bộc lộ. Tất cả những tiếng kêu đau đớn mà cảnh sát Thổ không làm nàng thốt ra được, bây giờ nàng kêu lên với một niềm tuyệt vọng. Rồi các tiếng kêu yếu dần. Trong kibbotuz, không một ai tin được nàng sẽ sống nổi.
Nàng sinh ra một đứa con trai thật đẹp và mạnh khỏe. Nói cho đúng hơn, nàng ở giữa sự sống và chết trong rất nhiều tuần lễ. Nàng, một thiếu phụ bé nhỏ, từ miền xa xôi Silesie Barak, đã tiếp tục chống trả, đẩy lùi được bóng tối của cái chết.
Thời kỳ hồi sức của nàng rất lâu, hết sức khó khăn. Sau nhiều tháng nàng có thể đứng lên nổi, và một thời gian nữa nàng mới có thể bước đi được với đôi chân bị tra tấn. Từ những thử thách khốn khổ ấy, nàng có một dáng đi khập khễnh không chữa khỏi được.

Sau cùng, đến mùa xuân 1917, quân Anh đủ sức để mở các cuộc tấn công. Xuất phát từ các vị trí ở Ai Cập, họ đã đẩy lùi được quân Thổ, với nhiều thiệt hại nặng, qua bán đảo Sinai trước, rồi kế đó đuổi luôn được địch ra khỏi xứ Palestine. Trước đêm Noel một hôm, quân đội Anh tiến vào Jérusalem.
Vài tháng sau Barak Ben Canaan cùng em là Akiba trở về xứ sở. Ngày mà hai anh em vượt qua hàng rào của Shoshanna, các bông hồng vừa nở giữa những thảm cỏ xanh tươi.
Sarah đợi chồng trước căn nhà nhỏ mà ban quản trị nông trường đã cấp phát. Đã có những sợi bạc trắng trong bộ râu hung đỏ của Barak. Và mái tóc đen của Sarah cũng đã điểm một vài sợi bạc. Nhưng khi chàng ôm nàng vào trong tay, tất cả những khổ đau của bốn năm chiến tranh đều được tan biến. Sarah, vẫn nhỏ bé mảnh khảnh, nắm lấy tay ông chồng khổng lồ, khập khễnh dẫn chồng vào nhà. Trên giường, một đứa bé ba tuổi khỏe mạnh kháu khỉnh đang quay đầu lại ngó người lạ mặt.
Barak quỳ gối và đưa hai tay mạnh mẽ bồng đứa bé đưa lên nói nhỏ :
– Con tôi! Con trai của tôi!
Sarah cúi xuống phía chàng :
– Tên con là Ari…

Bản tuyên ngôn Balfour được năm mươi nước phê chuẩn.
Ở Palestine, cuộc khủng bố của Thổ đã thanh toán hết một nửa dân số Do Thái tại xứ này. Bên Trung Âu, các rối loạn thời hậu chiến đã làm cho các vụ pogrom gia tăng trở lại. Xét theo một chiều hướng nào đó thì hai hiện tượng đó bù trừ cho nhau: chạy trốn các vụ bạo hành, một đợt sóng di dân thứ ba đổ vào xứ Israel và bù đắp cho những người đã bị tàn sát ở Palestine.
Một trong những hậu quả đầu tiên sự ủy trị của Anh quốc tại xứ này là việc hủy bỏ cấm mua đất cát do người Thổ trước kia ban hành để ngăn cản sự xâm nhập của Do Thái. Cơ quan Tài trợ Lập nghiệp của phong trào phục quốc lợi dụng cơ hội này để thực hiện một tham vọng ôm ấp từ nhiều năm: mua một vùng đất rộng trong thung lũng Jezreel bao gồm cả phần phía nam Galilée. Nhờ ở vụ mua đất này, lớn lao chưa từng có, mọi người có thể thành lập hàng loạt kibboutz mới.
Sự kiện này gây ra cả một niềm hăng hái kỳ lạ. Từ khắp mọi nơi, các tay khai hoang cựu trào từ bỏ các tiện nghi đã đạt được một cách khó khăn trước đây để tới trợ giúp cho việc xây dựng các cộng đồng mới. Akiba và Ruth mang theo đứa con gái Sharona mới sinh, rời bỏ tiện nghi (tương đối, nhưng không thể chối cãi là có tiện nghi) ở Shoshanna để mang sức và kinh nghiệm của mình giúp cho một nhóm người sắp tới lập nghiệp ở phía bắc Rosh Pinna, trong một nông trường mang tên Ein Or (Suối ánh sáng).
Trong thời gian ấy Tel-Aviv cùng các thành phố khác phát triển mạnh. Ở Haifa, người Do Thái bắt đầu mua nhà trên sườn núi Carmel. Ở Jérusalem, các nhà của họ xây cất đã vượt quá cái khung chật hẹp tạo bởi các tường thành cũ. Về phía người Anh, họ mở các con đường giao thông mới, thành lập các trường học, nhà thương, cải tổ các tòa án. Lord Balfour đích thân tới Jérusalem để đặt viên đá đầu tiên cho một Viện Đại học Do Thái trên ngọn Scopus.
Để tiến hành nhanh thêm sự tiến đến thành lập một Quốc gia thực sự, các Do Thái ở Palestine bầu ra một ủy ban đại diện, được gọi là “Trung ương” một thứ chính quyền đặc trách việc điều đình với người Anh và người Ả Rập. Trong những nhân viên của ủy ban này, Barak Ben Canaan được hưởng một uy tín xứng đáng với quá khứ cũng như các đức tính cá nhân của mình.
Nhưng chưa chi ma quỷ đã nhảy vào quậy phá. Không những còn xa mới được hưởng hòa bình mong ước, Palestine lại còn bị trở thành trung tâm cho một vụ tranh chấp quốc tế rộng lớn.
Dấu hiệu mở đầu cho tranh chấp này, kỳ dị thay, lại do Cộng sản Nga, các chủ nhân ông mới của các nước Nga ban hành. Khám phá thấy trong văn khố của sa-hoàng bản văn thỏa ước bí mật Sykes-picots trong đó Pháp và Anh chia nhau Trung Đông, điện Kumlin cho đăng tải tài liệu đó để gây rắc rối cho Anh và Pháp.
Mục đích này đã đạt được quá mức mong ước bởi vì thỏa hiệp trên mâu thuẫn quả tang với các lời hứa hẹn cho các dân Ả Rập độc lập của Anh Pháp. Trong các thủ đô Hồi giáo, các tiếng la ó vang lên dữ dội. Các biến cố xảy ra đã biện minh cho sự la ó này là đúng: tại hội nghị San Remo, Luân Đôn và Ba Lê chia cắt Trung Đông như cắt bánh. Người Pháp chiếm Syrie, kéo dài thêm bằng ống dẫn dầu từ các mỏ ở Mossoul tới, còn người Anh, họ chiếm phần sư tử bằng cách chiếm tất cả những gì còn lại. Nghĩa là một phần rất ngon lành.
Một mặt là hai vương quốc bù nhìn: Irak, tên mới của xứ Mésopotamic, ngai vàng được trao cho Faycal, con của émir thành Mecque, để thưởng công cho đã điều khiển, hầu hết bằng mồm thôi, các bộ lạc Ả Rập nổi dậy chống lại quân Thổ; và Transjordanie, tạo ra bằng cách lấy một phần của Palestine (Luân Đôn cũng chẳng buồn xin phép Hội Quốc Liên về việc cắt xén này nữa), gán ghép với các phần đất khác rồi đem trao cho Abdullah, em của Faycal, kẻ cũng đang sốt ruột mong được hưởng phần thưởng vì đã giúp người Anh những công tác khó xác định – và có lẽ là không thể nào xác định nổi.
Một mặt khác, Luân Đôn chiếm đóng trực tiếp Ai Cập và kênh Suez, Mossul với các giếng dầu, và Palestine, lãnh thổ được Hội Quốc Liên trao quyền ủy trị cho Anh. Đó là chưa kể cả chục “xứ bảo hộ” khác chung quanh bán đảo Arabie.
Tuy vậy Paleitine đặt ra một vấn đề đặc biệt. Bản Tuyên ngôn Balfour đã được toàn thể thế giới chấp nhận, Luân Đôn không thể cưỡng buộc xứ đó phải chịu nhận một chính quyền theo ý Anh quốc được. Hơn nữa những điều khoản ủy trị đã bắt buộc nước Anh phải thành lập một Quê Nhà Do Thái. Nắm vững tình thế này, tiến sĩ Weizmann cùng các lãnh tụ phục quốc khác, trong đó có Barak Ben Canaan, đã điều đình thẳng luôn với Faycal, lúc đó là phát ngôn viên không ai chối cãi được của thế giới Hồi giáo. Các cuộc thương thuyết dẫn tới một hiệp ước thân thiện trong đó Do Thái cùng Ả Rập cùng chấp nhận sẽ tôn trọng những nguyện vọng của nhau. Phía Ả Rập công nhận các quyền về lịch sử của Do Thái ở Palestine, ngoài ra còn tuyên bố rõ ràng rằng văn minh, tinh thần chủ động cùng các vốn liếng do Do Thái mang tới đã đóng góp thuận lợi cho sự phát triển xứ này.
Bây giờ, cần phải triệu tập “một hội nghị bàn tròn”. Nhưng không may là nếu phía Do Thái có được qua “Trung ương” một chế độ đại diện vừa dân chủ vừa được ủy nhiệm đủ quyền hành, thì phía Ả Rập, họ chỉ là một đám vô định hình hỗn độn. Một vài triều đại của các effendi ấy chỉ có thể nhân danh chính họ, nghĩa là cho một thiểu số rất nhỏ dân chúng mà thôi.
Một trong những triều đại mạnh nhất loại đó, là gia tộc El Husseini, sở hữu chủ của rất nhiều địa hạt rộng lớn trong vùng Jérusalem. Tộc trưởng là Hadj Amine trước đây đã có dự tính lợi dụng sự sụp đổ của Đế quốc Thổ để chiếm lấy quyền hành ở Palestine. Để đạt tới mục tiêu này, ông xoay xở để được bổ nhiệm làm mufti Jérusalem, một địa vị mang lại cho ông hai phương diện hành động. Một mặt Jérusalem là thành phố thánh thứ ba của Hồi giáo, sau La Meeque và Medine, nên ông sẽ có thể lợi dụng các số tiền lớn quyên được khắp trong thế giới Hồi giáo để bảo vệ các thánh địa. Một mặt khác, trong một đại chúng thất học mù chữ tới chín mươi chín phần trăm, các bài giảng trong các buổi lễ là khí cụ duy nhất để tuyên truyền trong quần chúng. Dụng cụ càng nguy hiểm hơn nữa là vì các fellah có khuynh hướng trở thành điên rồ sau bất cứ kích thích nào.
Dĩ nhiên là muốn làm mufti, cần phải là con cháu đích tôn của vị tiên tri xưa kia. Nhưng Hadj Amine không thắc mắc nhiều vì thế: ông cưới một cô gái thuộc giòng dõi Mahomet và tuyên bố rằng qua cuộc hôn nhân này, ông đã thực hiện được điều kiện nói trên.
Tới đây, thì vị mufti già được gọi về chầu đấng Allah. Trong cuộc bầu cử người thay thế, Hadj Amine mà các tham vọng ai cũng biết, chỉ đứng hạng tư. Ông không chịu nhận thất bại vì thế: cả tộc bộ của ông, toàn các tay chuyên cắt gân người không, đã hoạt động tích cực đe dọa ba ứng cử viên trên đến nỗi cả ba đành rút lui thì hơn. Hadj Amine thắng cuộc bầu cử làm mufti chỉ vì các ứng viên khác không ai dám nhận chức.
Đối với vị tân mufti này thì chướng ngại chính trên con đường dẫn tới quyền bính là cộng đồng các người khai hoang Do Thái. Phải tấn công đánh họ ngay. Ngày lễ mừng Đản sinh của Moise, ông đọc một bài giảng dữ dội chống lại người Do Thái. Đám đông quần chúng rách rưới nghèo đói nghe xong là nổi cơn điên lên ngay, thế là có pogrom.
Dẫu sao cơn giận của quần chúng Ả Rập cũng không đủ mạnh để thúc đẩy họ đến chỗ tấn công các thành phố cùng các Kibboutz, nơi mà người Do Thái thừa đủ khả năng để tự bảo vệ. Dân Ả Rập thích tấn công các cộng đồng chính thống giáo ở Safed, Tibériade, Hébron và Jérusalem hơn, để tàn sát các cụ già vô phương chống cự.
Ngày hôm đó Ruth cùng con gái Sharona lại có mặt ở Tibériade. Bị tràn ngập trong cơn sóng man rợ, cả hai mẹ con đều bị giết.
Khi biết tin, Akiba chìm đắm trong tuyệt vọng hoàn toàn. Barak vội vàng tới Kidboutz Ein Or để đưa em về nhà mình ở Tel-Aviv. Trong nhiều tuần lễ, chàng và Barak phải canh chừng hai mươi bốn trên hai mươi bốn, sợ Aliba sẽ tự tử. Mất nhiều tháng, Akiba mới tỉnh lại được. Nhưng đau đớn để lại trong lòng chàng một vết sẹo không bao giờ lành được.
Kể từ khi có chế độ ủy trị, đa số những cộng đồng Do Thái đã trao vũ khí cho các nhà cầm quyền Anh, kẻ chịu trách nhiệm duy trì trật tự. Bây giờ dân Do Thái đợi người Anh dẹp yên các vụ rối loạn và kết án những kẻ đầu tiên. Cao ủy Anh quả thực có chỉ định một ủy ban điều tra, ủy ban này đã quy trách cho Hadj Amine. Hadj Amine sau đó được… thứ lỗi!
Vài ngày sau, Thuộc địa vụ tại Luân Đôn cho công bố một Bạch thư giới hạn sự nhập cảnh của người Do Thái xuống “một phân xuất phù hợp với khả năng hấp thụ về phương diện kinh tế của xứ sở”. Đó cũng là lúc Churchill chọn để cắt phân nửa lãnh thổ ủy trị để tạo ra Transjordanie. Đối với phong trào phục quốc Do Thái, đến đây là chấm dứt một thời kỳ, sự sụp đổ tan tành của cả một giấc mộng đẹp.
Trong một buổi hội nghị bí mật triệu tập ở Tel-Aviv chừng năm mươi lãnh tụ phục quốc hiện diện. Có mặt: tiến sĩ Weizmann từ Luân Đôn tới, Barak Ben Canaan cùng em là Akiba, một người mang tên David Ben Gourion người thấp nhưng vai rộng, và một kẻ mang tên Avidar nào đó có thân thể vững chắc và đầu trọc lại làm người ta nhớ tới người chiến binh oai hùng đương sự đã từng trước kia trong quân đội sa-hoàng.
Ngay lúc vừa mở đầu thảo luận, ba khuynh hướng khác nhau đã biểu lộ. Tiến sĩ Weizmann cùng các bạn ông thì cho rằng, vì người Anh là chức quyền duy nhất hợp pháp trong xứ, việc duy trì trật tự – trong trường hợp này, là dẹp yên các vụ rối loạn – phải là nhiệm vụ của quân lực Anh. Đối với nhóm thứ hai, chủ hòa cực đoan thì mọi nỗ lực võ trang người Do Thái đều sẽ bị dân Ả Rập coi như là khiêu khích họ. Còn các tay tích cực do Akiba đứng đầu thì họ chủ trương trả đũa chớp nhoáng và tàn nhẫn. Họ khẳng định rằng cảm tình cũng như sự bảo vệ của người Anh chỉ có trên giấy tờ, còn trên thực tế, người Anh chỉ hành động cho quyền lợi của họ. Còn đối với dân Ả Rập, thì không có một lý luận nào, kết án nào làm cho họ suy nghĩ hữu ích bằng một khẩu súng chĩa thẳng vào họ.
Sau đó, các thảo luận sôi nổi kéo dài rất khuya trong đêm. Sau cùng, những kẻ ủng hộ một giải pháp vừa thực tế vừa thận trọng đã thắng thế. Đa số đã chấp thuận một đề án do Ben Gourion, Ben Canaan và Avidan đưa ra. Ba người này, vừa công nhận người Do Thái cần phải võ trang, vừa muốn củng cố lập trường Do Thái bằng những phương cách hợp pháp. Hậu quả là mọi người sẽ thành lập và huấn luyện một đoàn dân vệ bí mật hoàn toàn chỉ có mục đích tự vệ mà thôi. Các cơ cấu đại diện cho cộng đồng Do Thái, trên lập trường chính thức sẽ coi như không biết tới sự hiện hữu của đoàn này, nhưng khuyến khích đoàn một cách bí mật. Nhờ những trận chiến trong bóng tối như thế, ta sẽ dễ kiềm chế dân Ả Rập và điều đình với người Anh hơn.
Quyết định sau cùng là bổ nhiệm Avidan vào chức vụ tư lệnh đoàn dân vệ sẽ được gọi là Haganah, hay Tự Vệ đoàn.

Phần 2 – 10

Đợt sóng đi cư thứ ba tiến vào các thung lũng Jezreel và Sharon, trải rộng trong vùng Samarie, len lõi vào giữa các quả đồi vùng Galilée và Judée, phiêu lưu xuống phía nam, hướng về sa mạc. Các người khai hoang mang theo tới tận nơi lập nghiệp các trang bị nặng, du nhập các nguyên tắc canh tác tăng cường và luân canh, các phân bón hóa học, dẫn thủy nhập điền trên một kích thước rộng lớn. Ngoài việc sản xuất truyền thống các bưởi bòng và ô-liu, họ trồng thêm lúa mì và rau cỏ, đây, nuôi gà và kỹ nghệ sữa. Họ tiến đến tận bờ Tử hải, chiếm các phần đất còn mặn muối biển, không thể trồng trọt gì nổi từ bốn mươi ngàn năm, để rồi vẫn cứ thu hoạch được hoa mầu từ phần đất đáng nguyền rủa đó.
Năm 1925, hơn năm chục ngàn Do Thái, phân phối trong hàng trăm nông trường, đã khai thác hơn một nửa triệu dounam khai hoang được từ một xứ đã bị bỏ hoang phế từ lâu. Đa số trong họ đều mặc thứ y phục xanh da trời của các kibboutz. Họ đã trồng hơn một triệu cây. Trong mười, hai mươi, ba mươi năm nữa, những cây đó sẽ chiến thắng dứt khoát được hiện tượng đất đai bị sói mòn.
Trồng cây đã trở thành một ám ảnh đối với những người khai hoang. Từ đầu đến cuối xứ sở họ vạch ra cả một vòng dai rộng xanh tươi.
Rõ ràng là phong trào kibboutz, phát sinh từ các nhu cầu của xứ Palestine, đã là giải pháp cho vấn đề phục quốc. Nhất là các nông trường tập thể bây giờ đã đủ nhiều để hấp thụ được hàng ngàn người di cư tới sau. Dẫu sao cũng có nhiều người cảm thấy mình không thể thích ứng với loại đời sống này: nhiều người phụ nữ sau khi đi đòi được độc lập cho phụ nữ, đã hối tiếc là đã đòi được; nhiều kẻ quá cá nhân chủ nghĩa không thể chịu nổi đời sống quá tập thể, nhiều gia đình không đành lòng trao phó con cái cho nhà nuôi trẻ. Tuy vậy lý do khước từ chính yếu vẫn là sự kiện người khai hoang không sao đồng nhất mình nổi với khoảng đất mà họ có thể coi như sở hữu chủ. Vì thế sau cùng một nhóm ly khai đã tách ra khỏi phong trào kibboutz để thành lập một tổ chức xã hội mới gọi là moshav. Trong các nông trường moshav, mỗi người đều có đất riêng, canh tác riêng và ở nhà riêng. Nhưng mọi người vẫn duy trì quyền sở hữu tập thể cho các đồ trang bị nặng, cũng như duy trì một ban quản trị chung cho các dịch vụ công ích và mại mãi.

Một buổi chiều năm 1924, trở về nhà sau một tuần lễ làm việc mệt nhoài ở “Trung ương” phục quốc, Barak ngạc nhiên thú vị khi thấy ngồi trong phòng khách ông bạn già Kammal, mouktar của làng Abou Yesha, Kammal nói :
– Từ nhiều năm nay, tôi tuyệt vọng tìm kiếm một phương cách để giúp dân tôi ra khỏi các khốn cùng mà anh đã biết. Tôi là nhận thấy một điều hiển nhiên: chưa có ở nơi nào những kẻ bóc lột người tồi tệ hơn là các effendi Ả Rập. Họ không hề muốn cải thiện đời sống của các fellah… tiến bộ nào cũng có thể coi như đe dọa sự giàu sang phú quý của họ cả. Một mặt khác, tôi đã thấy những người Do Thái trở lại xứ này và làm được các phép mầu. Chúng tôi chắc chắn là không có gì chung với người Do Thái rồi: tôn giáo không, ngôn ngữ không, hình dáng bề ngoài cũng không nữa. Hơn nữa, tôi còn tự hỏi một ngày kia người Do Thái dám chiếm hết đất xứ này không biết chừng. Dầu thế, những người Do Thái lại là lối thoát khả dĩ duy nhất cho những người Ả Rập. Từ ngàn năm nay, người Do Thái là những kẻ duy nhất đã mang ánh sáng lại cho cái xứ cằn cỗi này.
– Kammal, tôi hiểu anh khổ tâm đến mực nào khi thú nhận như thế…
– Anh để tôi nói tiếp. Nếu Ả Rập và Do Thái có thể sống nổi với nhau hòa thuận mặc dù tất cả những gì đang chia rẽ chúng ta, thì người Ả Rập về lâu về dài sẽ được hưởng công trình người Do Thái đã thực hiện. Chính vì thế tôi đã có một quyết định trọng đại: tôi có ý định bán cho Quỹ Lập Nghiệp của các anh vùng đất ven hồ Honleh mà anh vẫn ao ước từ lâu đấy.
Barak thấy tim mình nhảy nhanh hơn. Kammal nói tiếp :
– Vụ bán này không hoàn toàn là do hảo tâm. Tôi sẽ đưa ra các điều kiện của tôi. Các anh phải cho phép dân Ả Rập làng tôi được học các phương pháp vệ sinh và canh tác của các anh. Các anh cũng phải chấp nhận cho vào trường các anh những đứa có khiếu nhất để chúng có được một nền học vấn tối thiểu.
– Về hai điểm này, anh sẽ được thỏa mãn hoàn toàn.
– Tôi chưa nói hết. Còn điều kiện thứ ba nữa: chính anh phải tới cư ngụ trong nông trường mới ấy.
Barak vuốt râu :
– Tôi? Tại sao phải là tôi?
– Ngày nào anh còn ở với chúng tôi, tôi biết là các điều kiện trên sẽ được tôn trọng và chúng ta sẽ giữ được tình láng giềng tốt. Tôi tin ở anh ngay từ ngày đầu tiên anh tới Abou Yesha, khi anh còn là một chàng trai mới lớn. Nghĩa là cách đây hơn ba mươi năm rồi.
Barak lầu nhầu :
– Xin cám ơn anh. Nhưng anh để cho tôi thì giờ suy nghĩ đã.

Sarah hỏi :
– Mình định trả lời bác Kammal ra sao?
Barak nhún vai :
– Chắc chắn là trả lời không rồi. Thật đáng tiếc, dĩ nhiên… Trong biết bao nhiêu năm anh đã cầu xin bác ta ban cho chúng ta phần đất ấy, và bây giờ… nếu anh từ chối tới lập nghiệp ở đó thì chúng ta sẽ chẳng bao giờ có được vùng đất ấy hết. Nhưng phải nhìn thẳng vào sự thực mới được. Ở trung ương, mọi người cần có anh. Anh chưa thể quy khứ lai từ được…
Sarah tán thành :
– Em hoàn toàn hiểu anh. Không có anh, tổ chức phục quốc sẽ ra sao nhỉ?
– Vậy đó! Chưa kể đến sự kiện anh đã quá năm mươi rồi, và công tác khẩn hoang vùng đó sẽ là một cuộc đội đá vá trời…
– Anh nghĩ phải đó. Không ai ở tuổi anh mà tình nguyện đi làm người khẩn hoang hết. Vả lại mình đã đóng góp đủ vào việc xây dựng xứ này rồi.
Chàng thở dài, ngừng đi đi lại lại trong phòng, ngồi phịch xuống ghế bành. Sarah lại gần, nghiêng người về phía chồng. Nàng mỉm cười. Barah la :
– Em, em đang chế nhạo anh. Vì cớ gì vậy!
Nàng lướt nhẹ ngồi lên lòng chồng và Barah vuốt tóc nàng với một dáng điệu êm dịu không ai có thể ngờ là có được ở một người to lớn như chàng. Chàng nói nhỏ :
– Anh chỉ nghĩ tới em, tới em và tới con. Công việc sẽ nặng nhọc lắm, đời sống khó khăn, hết sức khó khăn…
– Im đi nào mình. Uống trà đi…

Barak xin từ chức ở Quỹ Lập Nghiệp Do Thái, bán căn nhà đẹp ở Tel Aviv rồi đứng đầu hai mươi lăm gia đình khai hoang nữa, lên đường tới vùng đầm lầy Honleh. Chàng sẽ thành lập một moshav đặt tên Yad El, Bàn tay của Chúa.
Họ dựng lều ở mạn dưới các cánh đồng của làng Abou Yesha và thiết lập một chương trình làm việc. Trong tất cả những người khai hoang này, chưa có ai đương đầu với một công cuộc gay go như thế bao giờ. Các đầm lầy Honleh không dò nổi, phủ đầy cả một rừng bụi rậm cùng các cây cao cả năm thước. Trong bùn lúc nhúc rắn độc, bò cạp, chuột. Trong các quả đồi chung quanh, đầy lợn lòi và chó sói. Đồ trang bị, dụng cụ, thực phẩm và cả đến nước uống cũng đều phải dùng lừa chở tới..
Sarah điều khiển tại căn cứ, phòng y tế, bếp núc. Barak chỉ huy các ê-kíp ngày nào cũng như ngày nào, dưới ánh mặt trời tàn bạo, ngâm người đến tận thắt lưng và đôi khi đến tận vai vào nước hôi thối để đào những mương dẫn thủy đầu tiên. Đàn bà cùng làm việc với đàn ông, và ba đứa trẻ của nông trường, dưới quyền điều động của Ari Ben Canaan mới được mười tuổi lúc đó, lo việc mang đổ các thùng bùn và tiếp tế thức ăn. Mọi người làm việc bảy ngày trong một tuần, từ tinh sương đến mờ tối, và đêm đến lại còn phải thay phiên nhau gác vì có thú dữ và trộm cướp.
Ngay từ lúc đầu, đã là một cuộc chạy đua với thời gian rồi: các mương dẫn thủy phải được hoàn tất trước khi mùa mưa tới, nếu không tất cả nỗ lực của mùa hè sẽ bị tiêu tùng hết. Mọi người trồng hàng trăm cây khuynh diệp Úc để chúng hút nước đi. Để trợ giúp cho các người khai hoang, các kibboutz và moshav đều gửi người đến giúp mỗi khi có thể được.
Các cơn mưa đầu mùa đông suýt nữa cuốn trôi các lều. Sau mỗi trận mưa lớn, đàn ông đàn bà lại ùa ra để chữa các ống thoát nước bị bùn đóng nghẹt. Chưa chi, ngay cả đến Barak Ben Canaan, khối gân và bắp thịt ấy, cũng bắt đầu tự hỏi phải chăng lần này, họ đã không biết lượng sức mình. Mỗi khi nhìn vợ nhìn con mặt bị muỗi đốt sưng vù, yếu đi vì bệnh kiết, chàng có cảm tưởng như tim mình ứa máu. Nhưng thiên tai tồi tệ nhất, đó là bệnh sốt rét, bệnh của các đầm lầy. Trong sáu tháng đầu tiên, Sarah bị lên cơn sốt năm lần, Ari bốn và lần nào cũng tưởng là chết luôn. Dầu vậy không bao giờ họ than thở hay làm một biểu lộ nào chứng tỏ họ đã hối tiếc là đã tới nơi lam sơn chướng khí này.
Tuy thế đầm lầy đã đập vỡ tan nhiều cương nghị. Sau một năm, một nửa nhóm người nguyên thủy đã bỏ cuộc và lên đường trở về thành phố để sống một cuộc đời đỡ vất vã hơn. Chưa chi nông trường đã có nghĩa trang: bệnh sốt rét đã mang đi hai người.
Họ mất ba năm – ba năm chiến đấu không ngừng – để chiến thắng các đầm lầy. Sau thời gian này, các mặt đất đã đủ khô để đạc điền thành hai mươi lăm nông trại, mỗi trại hai mươi mẫu. Mọi ngươi không mất thì giờ để ăn mừng thành công đầu tiên này: cần phải gieo hạt ngay, xây cất nhà cửa và vựa lẫm.
Ari, hoàn toàn chiến thắng bệnh sốt rét, đã trở thành cứng cáp như sỏi đá. Mới mươi bốn tuổi, chàng đã có sức mạnh cùng khả năng chịu đựng của một người lớn.
Khi gia đình Ben Canaan đã dọn vào ở bungalow của mình, các đồng ruộng đã cày bừa xong, Barak được hưởng phần thưởng của ba năm cố gắng vượt sức con người: Sarah báo tin nàng lại có mang. Và đến cuối năm thứ tư, trong khi những khai hoang xay thóc mùa gặt đầu tiên ở Yad El, Sarah sinh đứa con thứ hai, một đứa con gái tóc óng ả, hung đỏ, giống hệt như tóc bố.
Bây giờ sau hết mọi người có thể cho phép mình nghỉ ngơi vài ngày và ăn mừng chiến thắng kỳ diệu. Và quả là một vụ ăn mừng! Từ khắp vùng kéo tới những đàn ông đàn bà thuộc các kibboutz và moshav đã từng trợ giúp cho nông trường mới này, còn từ làng Abou Yesha tới là các người Ả Rập do Kammal hướng dẫn. Trong một tuần lễ liền, mọi người nhảy điệu hora quanh các đám lửa trại. Ai cũng muốn ngắm nghía bồng bế con gái của Sarah và Barak, được đặt tên là Jordana để tưởng nhớ con sông chảy dọc theo Yad El.
Bỏ dở buổi lễ, Barak thắng yên hai con ngựa để đi cùng Ari lên chỗ mà bốn mươi năm về trước, chàng đã qua đó vào xứ Palestine. Đứng từ trên đồi cao, nhìn xuống thấy các cánh đồng, nhà cửa và các con đường của nông trường mới. Barak nói.
– Bố đã đưa mẹ con tới đây trước khi cưới…
Chàng vòng cánh tay ôm lấy đôi vai lực lưỡng của con.
– Một ngày kia tất cả thung lũng này sẽ được khai hoang, đồng lầy và sỏi đá sẽ biến thành thiên đàng dưới thế.
Các ống tưới nước tròn xoay tung ra một làn nước rẽ quạt. Một ngôi trường sắp làm xong ở giữa các thảm cỏ và các luống hồng. Một kho lẫm lớn chứa khoảng chục chiếc máy kéo và máy gặt. Chỉ có một vết đen duy nhất trong bức tranh tiến bộ hòa bình này, đó là nghĩa trang với dãy năm ngôi mộ.

Các hy vọng của Kammal, mouktar của làng Abou Yesha không bị thất vọng: việc thành lập Yad El có những tác động thần diệu với đời sống dân làng ông. Trung thành với lời hứa, Barak đã cho thành lập các trường đặc biệt trong đó thanh thiếu niên Ả Rập được học những nguyên tắc vệ sinh tân tiến, cách sử dụng các nông cụ cơ giới, các phương pháp canh tác tăng cường. Cũng như viên y sĩ và nữ điều dưỡng của Yad El cũng phục vụ cho cả người Ả Rập.
Đứa con cưng nhất của Kammal, Taha, trở thành người được gia đình Ben Canaan bảo trợ. Kammal đã truyền thụ lại cho Taha lý tưởng của mình: làm việc để cải thiện đời sống của các fellah. Đến nỗi rằng vị xã trưởng tương lai của Abou Yesha sống trong nông trường Do Thái nhiều hơn sống trong làng mình. Ari hơn Taha vài tuổi, đã kết bạn với Taha và đi đâu mọi người cũng thấy có hai người với nhau.
Tuy vậy, cái minh chứng tỏ Do Thái và Ả Rập có thể sống và làm việc cạnh nhau trong hòa thuận này không làm hài lòng tất cả mọi người. Đa số những effendi giàu đã bắt đầu sợ hãi điều mà dưới mặt họ, là một cái gương tầy trời đáng lo. Các đặc quyền của họ rồi sẽ ra sao nếu các fellah đòi hỏi quyền được đi học, đòi có các cơ sở vệ sinh, săn sóc y khoa? Nếu họ nghĩ tới – ý tưởng ghê khiếp thay! – việc bắt chước những tên Do Thái đáng nguyền rủa kia, những kẻ cai trị nhau theo phương pháp dân chủ và cho cả đàn bà quyền bỏ phiếu? Như vậy chắc sẽ là sự sụp đổ hoàn toàn của chế độ phong kiến phụng sự rất tốt – cho quyền lợi của các effendi!
Để chống lại các tiến bộ của công cuộc khẩn hoang Do Thái, các effendi biết rằng họ có thể trông cậy ở sự ngu dốt, sợ hãi mê tín cùng lòng cuồng đạo của các nông dân Ả Rập. Mufti Hadj Amine, về phía ông, cũng nghĩ như thế. Dẫu sao ông cũng án binh bất động từ lâu quá rồi. Bây giờ, năm 1929, ông cho rằng đã đến lúc thuận tiện để hành động,
Địa điểm có giáo đường Omar ở Jérusalem được toàn thể thế giới Hồi giáo sùng kính như là nơi vị tiên tri đã thăng thiên. Vậy mà cũng tại địa điểm này có Bức Tường Than Khóc nổi danh, di tích sau cùng của ngôi đền thờ lớn của Do Thái đã bị quân La Mã phá hủy vào năm 70 trước TL. Những người Do Thái sùng tín thường đến tưởng niệm trước tường, để cầu nguyện và khóc cho sự huy hoàng đã mất của Vương quốc Israel.
Mufti Amine liền cho phổ biến các bức hình ngụy tạo trong đó mọi người thấy, trước Bức Tường Than Khóc những người Do Thái sắp sửa “báng bổ” thánh địa của giáo đường Omar. Cơn cuồng đạo của Hồi giáo lập tức bùng ra ngay. Dân chúng Ả Rập lại tấn công các ông già súng đạn vô phương tự vệ của các thành phố thánh, nhưng lần này các cuộc tàn sát đạt tới các tỷ lệ ghê gớm hơn các pogrom do chính mufti này tổ chức mười năm về trước nhiều. Các cuộc tàn sát cũng tràn đến cả một vài kibboutz nhỏ kém trang bị, nên con số người chết của hai bên lên tới nhiều nghìn người. Còn về người Anh, một lần nữa họ lại hầu như không sao phục hồi trật tự.
Ngược lại, họ chỉ định một ủy ban điều tra. Ủy ban này, sau khi qui trách nhiệm cho người Ả Rập mà thôi, đi đưa tới một kết luận không ai ngờ: bất cần cả bản Tuyên ngôn Balfour lẫn các điều khoản trong bản văn ủy trị, ủy ban khuyến cáo nên hạn chế nghiêm khắc việc nhập nội của Do Thái cùng việc mua đất “để làm giảm sự lo ngại của người Ả Rập”.

Phần 2 – 11

Sáng hôm đó, Barak trao cho con trai việc mang lúa mì tới cối xay Aata ở làng Ả Rập cách đó chừng mười cây số. Sarah phản đối :
– Tại sao anh lại nghĩ tới chuyện đó! Một đứa bé mười bốn tuổi… Với những biến cố đang xảy ra, các cạm bẫy trên đường đi…
– Chính vì thế đấy! Cả con trai lẫn con gái tôi sẽ không có đứa nào suốt đời run lên như cầy sấy giống như dân Do Thái ghetto.
Rất kiêu hãnh được bố tin cậy, Ari treo lên chiếc xe do lừa kéo, khởi hành đi Aata.
Ngay khi Ari tiến vào làng, chừng mười tay du đãng Ả Rập quẩn quanh quanh quán cà-phê duy nhất ở nơi này đã nhận ra chàng rồi. Chúng chờ đợi cho tới khi xe Ari đã quẹo ở góc dường, mới kéo nhau đi theo tới tận máy xay. Ở bên trong, Ari, thạo tiếng Ả Rập, bàn cãi với chủ máy. Chàng muốn tự mình coi từ đầu tới chót để chắc chắn khi đã xay xong, chủ nhân phải đổ bột của mình vào các túi đựng bột của mình, chứ không phải đổ bậy bột lấy từ lúa mì Ả Rập tồi hơn rất nhiều. Chủ nhân rất lấy làm buồn vì hắn đã hy vọng tráo được mười hay hai mươi ký. Mọi việc xong xuôi, Ari lên đường trở về Yad El.
Chàng vừa ra đi, các du đãng Ả Rập đã lại đề nghị với chủ máy xay một đề nghị hấp dẫn: chúng sẽ cướp lấy bột của Ari rồi bán lại với chủ nhân bằng giá rẻ. Chủ máy nhận lời ngay lập tức, các du đãng rời làng bằng một con đường tắt, vội vã dựng một ụ đá chặn một cuối dốc.
Một vài phút sau Ari đâm đầu vào bẫy. Khi những viên đá đầu tiên ném ra như mưa, chàng quất mạnh roi thúc lừa cho chạy nhanh hơn để rồi phút sau đâm đầu vào hàng rào đá cản. Một viên đá ném trúng ngay đầu làm choáng váng, ngã gục xuống. Bốn du đãng lao ra đè chặt cứng chàng xuống đất trong khi những đứa còn lại chuyển các túi bột xuống xe mang đi.
Đến khuya Ari mới trở về được Yad El.
Chính Sarah ra mở cửa. Khi nhìn thấy mặt Ari đầy máu, quần áo tả tơi, bà hét lên. Răng xiết chặt, Ari đi thẳng lên phòng riêng đóng cửa lại khóa chặt. Chàng chỉ chịu xuống khi bố đã đi dự một buổi họp của moshav về. Chàng cố gắng nói rõ từng tiếng mặc dù môi sưng vù rướm máu :
– Con đã phụ lòng tin của bố. Con đã để mất bột rồi.
Barak phản đối :
– Chính bố mới đáng trách. Chỉ bố đáng trách thôi.
Sarah chạy ra ôm con vào lòng :
– Anh nghe đây, không bao giờ anh được gửi con đi một mình nữa… Không bao giờ…
Barak không trả lời. Nhưng sáng hôm sau ông đưa Ari vào vựa thóc, nói :
– Bố đã quên không dạy con về một vài phương diện…
Ông lấy chiếc roi da cũ ra, tay một thứ hình nhân đưa ra cắm ở bờ rào. Ông cắt nghĩa rất lâu cho con ước lượng xa gần, nhắm và đánh như thế nào. Nghe thấy tiếng kêu réo đầu tiên, Sarah ôm bé gái Jordana chạy lại :
– Anh điên sao anh? Dạy cho đứa bé đáng thương này cách xử dụng roi da… anh điên thật rồi đó anh!
Lần đầu tiên từ hai mươi năm lấy chồng, Sarah thấy sợ hãi chồng. Barak gầm lên :
– Bà im đi! Con trai của Barak Ben Canaan là một con người tự do! Nó sẽ không bao giờ là một Do Thái ghetto hết. Rồi, bây giờ bà đi chỗ khác cho, đàn ông chúng tôi không muốn mất thì giờ với các lời lèm bèm của đàn bà!
Đây quả là một vụ huấn luyện đến nơi đến chốn. Từ sáng đến chiều Ari tập dượt không ngừng. Hình nhân bị đánh nát tan từng mảnh, chàng lấy đích là các hòn đá, các vỏ đồ hộp, chai lọ, tập cho tới khi chàng chỉ vung tay lên một lần là đánh trúng được. Tối đến, chàng không đủ sức để giơ tay lên nữa.
Sau nửa tháng, Barah lại xếp mười hai túi lúa mì rồi lên xe lừa.
– Mang đến máy xay Aata, xay thành bột. Đừng có quên chiếc roi da. Nhưng con phải nhớ điều này: con không có quyền dùng roi vì tức giận hay để trả thù, con chỉ được dùng nó để tự vệ mà thôi.
Khi chiếc xe lên đường Sarah chạy vào phòng riêng, nằm gục xuống giường khóc nức nở. Barah, ông làm điều ông đã bao nhiêu năm nay không làm: ngồi trong chiếc ghế bành ưa thích nhất, ông đọc Thánh Kinh.
Khi rời Aata về, Ari lại rơi vào ổ phục kích cũng vẫn do tụi du đãng ấy tổ chức. Nhưng lần này chàng đề phòng rồi. Ngay khi các viên đá đầu tiên rơi xuống gần xe, chàng phóng ngay xuống đất đi lùng tên chúa đảng, tay cầm roi da. Vù một cái, sợi da dài đã quấn quanh thân tên Ả Rập, nâng bổng hắn lên, quật xuống đất. Ngay lập tức Ari gỡ roi ra và đánh một nhát thứ hai xuống làm tung da thịt. Mười giây sau, chàng làm chủ chiến trường.
Ở Yad El, Barak bắt đầu lo ngại: hoàng hôn xuống rồi và Ari chưa trở về. Sau cùng, ông thấy chiếc xe xuất hiện trên đường. Ông bình tĩnh uể oải tien ra bờ rào :
– Thế nào Ari! Mọi sự ra sao?
– Tốt đẹp lắm bố.
– Để bố mang các túi bột xuống. Con phải lên thăm mẹ ngay. Mẹ con đang lo lắng lắm, bố cũng chẳng hiểu rõ tại sao…

Năm 1930, các rối loạn đã gần như ngừng hẳn. Vả lại đa số các làng Ả Rập thoát khỏi ảnh hưởng của mufti, đã khước từ tham gia vào các vụ rối loạn đó.
Ari Ben Canaan càng ngày càng giống bố. Cũng cao lớn, khỏe mạnh như Barak, chàng cũng thừa hưởng tính bình tĩnh cùng lòng bướng bỉnh lạnh lùng của bố.. Hoàn toàn tin rằng một sự sống chung hòa thuận thành thật với người Ả Rập có thể có được, chàng vẫn có bạn thân là Taha, con trai của mouktar làng Abou Yesha.
Từ vài tháng nay, chàng yêu cô gái con trại chủ lân cận. Và nàng Dafna cũng chỉ để mắt tới chàng, tất cả mọi người đều tin chắc hai người sẽ lấy nhau trong vài năm tới. Khi ấy hai người sẽ là đôi lứa điển hình cho thế hệ mới của Palestine, thế hệ sinh trưởng ở trong xứ. Ngay từ bây giờ, Ari, mười lăm tuổi, đã là đoàn viên Haganah, đoàn dân vệ, và Dafna, mười ba tuổi, đã biết xử dụng năm sáu thứ vũ khí khác nhau. Cả hai đều kiêu hãnh khỏe mạnh và ý thức rõ nhiệm vụ định mệnh đã trao phó cho mình.
Một thời gian sau khi các vụ rối loạn chấm dứt, vị mufti, được sự của người Anh khuyến khích, âm thầm cho triệu tập một đại hội quốc tế Hồi giáo. Trước rất nhiều đại diện đã tới Jérusalem, ông tuyên bố thành lập một Liên bang (dĩ nhiên do ông chỉ huy) và tuyên bố quyết định cứu Hồi giáo khỏi nỗi hiểm nguy là người Anh và Do Thái.
Mới nhìn thoáng qua, tưởng chừng các lời lộng ngôn của các chính khách mị dân Ả Rập sẽ không có hiệu quả thực tế nào, nhất là bây giờ đoàn Haganah đã đủ mạnh để hãm bớt sự hăng hái của mufti cùng thủ hạ. Tuy thế, ngay từ 1933, tình hình mỗi lúc một nghiêm trọng hơn vì sự kiện Hitler cùng đảng Quốc Xã lên cầm quyền ở bên Đức. Trước viễn ảnh một đợt sóng di cư mới cùng lời đe dọa sẽ tổng đình công của người Ả Rập (để phản đối đợt di cư nếu có ấy), người Anh quyết định áp dụng các khuyến cáo của ủy ban điều tra: giới hạn số chiếu khán cấp phát và việc mua đất của các tổ chức Do Thái. Cũng vì thế, ngay vào lúc hàng chục ngàn người Do Thái Âu châu tìm kiếm tuyệt vọng một quốc gia nhận cho mình tị nạn, thì Anh quốc, để quên lãng lời hứa, đã đóng cửa các biên thùy của Palestine.
Dân Do Thái, qua trung gian là Haganah, phản ứng lại bằng phương sách hoạt động duy nhất còn lại: xử dụng các tay phá phong tỏa của tổ chức Mossad Aliyabet. Nhưng không may là vị mufti, xử dụng không biết xấu hổ một thứ áp lực gần như là xăng-ta, tranh đấu hăng hái đến nỗi người Anh sau cùng đành trao phó cho Hải quân Anh nhiệm vụ ngăn chặn các tàu của Mossad. Mufti hết sức mừng rỡ, không những vì người Anh cố gắng tối đa để ông khỏi bị vất vả gì hết, mà còn tìm thấy ở Hitler một bạn đồng minh mạnh không ngờ đến. Nuôi nhiều tham vọng lớn trong vùng Trung Đông Đức coi vị mufti này như một tay tuyên truyền rất tốt. Ở Caire và Damas, tiền bạc quốc xã tung ra như suối. Hỡi những người Ả Rập, Đức quốc là bạn của các bạn! Đất Ả Rập của người Ả Rập! Hãy tống cổ tụi Anh và đồng bọn Do Thái ra ngoài!
Trước cơn bão tố sắp sửa xảy ra, cộng đồng Do Thái Palestine chỉ có một lợi điểm, nhưng đáng kể: Haganah với hai mươi lăm ngàn nam nữ tổ chức được một đoàn dân quân do chừng hai mươi lăm đến ba mươi “sĩ quan chuyên nghiệp” chỉ huy, một cơ quan phản tình báo hết sức hiệu lực, trông cậy sự hợp tác thành thật của nhiều quân nhân Anh, và nương dựa vào sự tham nhũng tiền bạc đến mức độ mua chuộc dễ người Ả Rập. Mỗi thành phố, mỗi làng, và đến từng kibboutz; và moshav nhỏ nhất, cũng đều có các đơn vị dân vệ. Nhờ một bản mật mã, tư lệnh Haganah trong khoảng thời gian vài phút, có thể động viên hàng trăm nam nữ đến những nơi tồn trữ súng giấu diếm rải rác khắp xứ.
Mua từ khắp trên thế giới, các vũ khí được nhập nội Palestine bằng cả trăm ngàn phương cách khác nhau. Thí dụ như trong xe hủ lô chẳng hạn: một hủ lô thôi có thể chứa dễ dàng trăm khẩu carbine. Còn về đạn dược, mọi người giấu trong các kiện hàng, đồ hộp ngay cả tới trong các chai rượu vang nữa. Người Anh chỉ có thể ngăn chặn sự nhập nội bất hợp pháp này bằng cách kiểm soát tất cả các món hàng nhập cảng, nhưng làm như thế là hóa ra đình chỉ nhập cảng luôn. Và hơn nữa vì nhiều người Anh sẵn lòng quay mặt đi chỗ khác khi thấy một kiện hàng khả nghi…
Tuy vậy, mặc dù sự tham dự tích cực của dân chúng Do Thái, hiển nhiên là việc nhập cảng lậu không cho phép đưa vào các vũ khí nặng cùng số vũ khí tối tân đủ dùng cho cá nhân. Đa số các vụ mua súng ở ngoại quốc đều chỉ là súng trường, carbine, súng lục biến cải hay cổ lỗ. Không có một kho vũ khí nào trên thế giới lại linh tinh tạp nham cho bằng kho vũ khí của Haganah. Để chấn chỉnh một phần nào tình trạng này, các cơ xưởng chế tạo vũ khí lậu được thành lập ngay ở Palestine để chế tạo các loại súng cối, đại liên, trung liên và lựu đạn. Còn về chỗ giấu, không thành vấn đề, một khi vũ khí đã được nhập nội rồi, bất cứ ngăn kéo, tủ lạnh, giường tủ nào cũng có thể giấu được vài ba khẩu, chưa kể các sàn nhà, cửa giả hay tường rỗng. Còn về vấn đề chuyên chở, mọi người cũng không khó tính. Các vũ khí đi “phiêu du” trong các bánh xe sơ-cua của xe vận tải, ở dưới các cần xé thực phẩm, các xọt chồng chất trên xe lừa. Và biết người Anh tính e thẹn, Hagana không ngần ngại trao vũ khí cho đàn bà giấu dưới váy mang đi.
Còn lại vấn đề huấn luyện quân sĩ. Trong địa hạt này cũng như trong việc khai hoang, chính các kibboutz đã giải quyết được nhờ ở cơ cấu tổ chức cộng đồng của họ. Không có gì dễ cho bằng gửi hai mươi hay ba mươi quân nhân trẻ trà trộn vào bốn trăm năm trăm người trong một nông trường, lập các kho giấu vũ khí chính tại đó, cũng như thiết lập các công binh xưởng bí mật. Và đa số các cấp chỉ huy của Haganah cũng đều xuất phát từ các kibboutz.
Tất cả các tổ chức này, do Avidan thực hiện trước mũi người Anh, rút sức mạnh từ sự kiện là không một người Do Thái nào nghĩ tới việc phủ nhận quyền bính của ông hết. Người ta không bàn cãi một mệnh lệnh của Haganah, ngươi ta chỉ thi hành thôi. Tuy thế, ở trong Bộ Tư lệnh, lại có những chia rẽ quan trọng. Đối với Avidan và các cấp chỉ huy cựu trào, Haganah chỉ xử dụng tới võ lực khi cần tự vệ mà thôi. Sự dè dặt này mỗi ngày càng làm khó chịu phe tích cực ủng hộ việc trả đũa chớp nhoáng mỗi khi có bất cứ khiêu khích nào. Trong số những người thuộc thành phần này, Akiba – chính thức ra chỉ là một người làm nghề chăn nuôi khiêm tốn ở kibbotz Ein Or, không chính thức ra thì là kẻ đặc trách quân sự tỉnh Galilée – có một uy tín lớn đối với một số đàn em. Khi người Anh công bố phong tỏa bờ biển Palestine, Akiba cho rằng thời kỳ cũ xưa đã qua rồi. Ông tụ họp một số người đồng quan điểm, và các tay nổi loạn này đã có một quyết định làm rung chuyển cộng đồng Do Thái.

Mùa xuân 1934, Barak Ben Canaan được Avidan yêu cầu tới gặp Bộ Tư lệnh của Haganah đặt tại Jérusalem.
– Một tai họa xảy đến cho chúng ta, Barak. Akiba đã rời khỏi Haganah, lôi cuốn theo nhiều đơn vị trưởng tài ba nhất của chúng ta. Và hàng trăm dân vệ khác cũng sắp noi gương Akiba.
Barak thốt lên một tiếng thở dài.
– Chúng ta chờ chuyện đó xảy ra chứ: Akiba nói tới việc này từ nhiều năm rồi. Tôi chỉ ngạc nhiên là tại sao chú ấy có thể chịu nhịn được cho tới giờ phút này. Chú ấy uất ức kể từ ngày ông cụ chúng tôi bị bọn học sinh trung học ở Jitomir giết chết. Và chú cũng chưa bao giờ quên được vụ vợ con bị giết.
Avidan nhún đôi vai u :
– Anh cũng biết là một nửa công việc của tôi trong Haganah là kìm bớt tính sốt ruột điên rồ của các người trẻ. Nếu chúng ta để cho họ làm theo ý muốn, ngay ngày mai họ sẽ tuyên bố khai chiến với Đế quốc Anh! Các tính tình của anh, của tôi, của Akiba chắc chắn đều giống nhau như hệt, nhưng ông em anh dám phá hủy công cuộc của chúng ta. Một trong những lý do cắt nghĩa tại sao cho tới giờ phút này chúng ta đã làm được bao nhiều là việc đó chính là thứ mặt trận thống nhất chúng ta đưa ra đương đầu với địch, mặc dù các bất đồng bên trong. Bây giờ Akiba và các thành phần tích cực quá đáng ấy sẽ làm vỡ sự thống nhất. Nếu họ tung ra các hoạt động đặc công, tất cả cộng đồng Do Thái sẽ lãnh đủ hết.

Barak rời Jérusalem để tới Ein Or. Nông trường này, như mọi kibboutz đã thành lập được lâu, trông như cả một khu vườn. Với tư cách cựu trào, Akiba được sống riêng biệt trong một nhà riêng hai phòng đầy những sách. Ông cũng còn quyền, hết sức là đặc biệt, có riêng một máy phát thanh. Trong khung cảnh yêu dấu, Akiba có thể sung sướng nếu ông đã tìm cách giải thoát khỏi bóng ma ám ảnh của vợ và con đã bị giết chết.
Ngay từ những lời nói đầu tiên của Barak, Akiba đã lộ rõ một vẻ nóng nảy giận dữ. Hiển nhiên là ông sợ vụ phải cắt nghĩa trình bày này với anh ruột.
– Tôi thấy là quý ông trong Trung ương đã gửi anh tới đây để nước mắt ngắn dài với tôi. Tại sao mấy ông bự đó không thân chinh lại đây? Mấy ông đó hẳn rất thạo nghệ trong việc xoa dịu thiên hạ mà.
Barak trả lời :
– Tôi vẫn cứ lại đây dầu họ không yêu cầu. Ngay từ lúc tôi biết chuyện điên rồ của chú….
– Điên rồ? Tôi chỉ làm những gì mà Trung ương sợ không dám làm thôi. Nhưng sớm hay muộn, ngay mấy ông giáo chủ quá thận trọng với bất cứ giá nào đó cũng sẽ bắt buộc phải nhìn thẳng vào thực tại. Người Anh là kẻ thù của chúng ta….
– Tôi không tin thế chút nào, chú Akiba. Xét chung, chúng ta đã đạt được nhiều kết quả tốt đẹp dưới triều đại của người Anh. Dầu thế nào người Anh cũng là chính quyền hợp pháp ở Palestine.
Akiba mỉa mai :
– Một chánh quyền sẵn sàng cắt cổ chúng ta. Những quý vị hào hoa phong nhã trong Trung ương đi hết từ hội nghị này sang hội nghị khác, một cái cặp đầy căng giấy tờ cắp nách, đọc các bài diễn văn, cúi mình chào và cười cười, trong khi tên mufti cùng các tay sát nhân của hắn tự do hành động. Anh có thấy tại Ả Rập chịu điều đình với chúng ta không?
– Chúng ta vẫn tiếp tục các mục tiêu của chúng ta bằng các con đường hợp pháp.
– Chúng ta chỉ có thể đạt tới các mục tiêu đó nếu chúng ta chiến đấu thôi!
– Cứ cho là thế đi! Nhưng nếu chúng ta bắt buộc phải chiến đấu, thì chúng ta hãy cùng tiến bước dưới cùng một lá cờ. Chú, khi chú thành lập đoàn quân ngoài vòng pháp luật như thế, chú tự xếp chú ngang hàng với tên mufti. Chú có bao giờ nghĩ tới các hậu quả do sự ra khỏi Palestine của người Anh sẽ mang lại không? Dù sự chua chát của chú (và cả của tôi nữa) có lớn tới đâu đi nữa, thì người Anh vẫn còn là may mắn lớn nhất cho chúng ta để đạt tới qui chế Quốc gia một ngày kia.
– Chúng ta sẽ trở thành một quốc gia theo cùng cách thế chúng ta đã khai hoang: bằng mồ hôi và bằng máu của chúng ta. Về phần tôi, tôi chán ngồi móc meo trong cái xó này đợi người Anh ném cho chúng ta hạt cơm thừa miếng canh cặn.
Barak phải cố gắng mới kiềm chế nổi mình :
– Chú Akiba, lần chót tôi yêu cầu chú đừng làm như thế. Làm vậy chú chỉ mang lại cho kẻ địch của chúng ta cơ hội để bôi nhọ vu cáo chúng ta thêm mà thôi…
Akiba kêu lên :.
– À, vậy thế hả! Sau cùng, chúng ta đã đến tận cùng của vấn đề rồi đây. Bao giờ cũng cái bản nhạc cũ rích ấy hả? Một Do Thái phải tuân theo “luật chơi”, một Do Thái thì phải cầu xin, phải kêu gọi tới tình nhân đạo, một Do Thái là phải giơ má ra…
– Chú im đi!
Akiba hét lên :
– Tôi không im! Các anh ấy à, các anh chỉ có mỗi một nguyên tắc thôi: chúng ta làm gì thì làm nhưng đừng có chiến đấu. Tụi Đức, tụi Ả Rập, Anh coi các anh như các đứa trẻ con thiếu giáo dục cũng là quá ghê rồi.
– Tôi nói với chú là chú im đi.
– Thật thế hả? Anh Barak, anh là cái đồ Do Thái ghetto… các anh là thế đấy, cả các quý vị trong Trung ương nữa. Này đây, ông anh yêu quý của tôi nghe đây, tôi, tôi có thể lầm lẫn, nhưng tôi muốn sống. Mặc kệ tất cả thế giới có cho ước muốn này của tôi có là sai lầm chăng nữa!
Bây giờ đến lượt Barak run lên vì tức giận. Ông đứng dậy, giận dữ, căng thẳng, tiến ra phía cửa. Đằng sau ông, Akiba tiếp tục thốt hết ra những hận thù :
– Anh hãy nói với tất cả các kẻ chuộng ăn nói rằng Akiba cùng các Macchabée (Thây ma) có một thông điệp xin gởi tới người Anh cùng Ả Rập: “Mắt đổi mắt, răng đổi răng!”
Đứng trên ngưỡng cửa, Barak quay đầu lại :
– Thế đủ rồi! Từ giờ chú không được đặt chân vào nhà tôi nữa, không bao giờ.
Akiba sững người. Môi ông bắt đầu run lên, mắt mờ đi, nói nhỏ, không tin :
– Không bao giờ được đặt chân vào nhà anh? Anh Barak, coi kìa, chúng ta là anh em… Anh đã mang tôi trên lưng từ Nga về Palestine này…
– … Để ngày nay hối tiếc đã làm như thế.
– Vậy anh muốn kết tội tôi chỉ vì tôi hành động theo lương tâm tôi?
Nhìn thấy Barak đặt tay lên chốt cửa, Akiba đột nhiên lại tức giận :
– Barak Ben Canaan, anh nghe lời chót đây: Không một hành động nào của chúng ta, dù cao quý hay bất xứng, lại có thể nặng nề cho bằng những hành động thiên hạ đã làm đối với dân tộc Do Thái. Ngày mai đây, cho rằng các Macchabée có nổi điên lên nữa đi nữa, thì thử hỏi mọi người lấy quyền gì mà trách cứ một khi dân tộc Do Thái đã bị hành hạ suốt hai ngàn năm?

12
Mười bảy tuổi, Ari Ben Canaan cao 1m95 và khỏe như voi. Ngoài Hébrew và tiếng Anh, chàng cũng thông thạo Ả rập, Đức, Pháp cùng bập bẹ nói được Y’ddish, ngôn ngữ mà bà mẹ đã sử dụng mỗi khi bà nổi cơn giận.

Vị hôn thê của chàng là Dafna đã nảy nở thành một cô gái khoẻ mạnh, vui tính, đầy duyên dáng… và sống chỉ cho chàng mà thôi… Chắc chắn là họ sắp cưới nhau đến nơi. Tuy vậy, tình hình càng căng thẳng thêm ở Palestine, họ càng có ít thì giờ để gặp nhau. Là đoàn viên nhiệt thành của Haganah, Ari đã chứng tỏ các khả năng đặc biệt đến nỗi Avidan coi chàng như một trong những nguồn hy vọng của quân lực Do thái tương lai. Sự kiện này không có gì ngạc nhiên hết: đa số các quân nhân ưu tú đều chưa đến tuổi trưởng thành.

Trong cơ ngũ của mình, Ari từng tổ chức cho năm hay sáu kibboutz. Sau đó một thời gian, khi Mossad bắt đầu đánh phá phong toả mặt biển, thượng cấp chỉ định chàng chiếm giữ tại các bãi biển, nơi các tàu đưa người di cư đổ bộ xuống. Chàng cũng lo đưa di dân tới các nông trường trà trộn với các nông dân, cùng thu thập các sổ thông hành của các di dân được nhập nội chính thức Palestine để phân phối lại cho các Do thái bất hạnh còn kẹt ở Âu châu.

Mỗi khi chàng được rảnh vài ba hôm, chàng điện thoại về Yad El, và ngay lập tức Dafna lên đường đi Tel Avi, bằng ngựa, bằng cách quá giang xe hơi hay đi bộ để tới gặp chàng. Hai người đi nghe nhạc của Ban đại hoà tấu mới thành lập mà buổi trình diễn đầu tiên đã được hân hạnh do Toscanini điều khiển, họ đi thăm các triển lãm hội hoạ, dự các buổi diễn thuyết, hay chỉ lang thang trên các đường phố Yehuda và Albenby, giữa các quán cà phê bàn ghế bày ra đến tận vỉa hè. Mỗi lần được gặp gỡ, sung sướng càng thêm mãnh liệt và lúc chia tay càng thêm đau buồn. Ari không muốn cưới vợ trước khi có được một nông trại riêng để xây dựng tổ ấm. Nhưng tình hình mỗi ngày một trầm trọng, và công vụ trong Haganah mỗi gnày đòi hỏi thêm nhiều thời gian, chàng tự hỏi ước mong đó liệu một ngày kia có thực hiện được hay không nữa. Họ yêu nhau điên cuồng và không còn chịu đựng nổi nữa. Bởi vậy một đêm- Ari đã mười chin và Dafna mười bẩy- nàng hiến thân cho chàng. Kể từ giờ, trong những giờ khắc riêng tư hiếm hoi mà các biến cố còn cho phép, họ ngây ngất khám phá ra hạnh phúc được thuộc về nhau.

Nếu đợt di cư thứ hai đã mang vào Palestine các người lý tưởng và những người chỉ huy lãnh đạo, đợt thứ ba mang lại những người khai hoang, thì đợt thứ tư, gồm toàn Do thái Đức, đã mang lại cho cộng đồng Do thái một thúc đẩy lớn về văn hoá và khoa học. Trước các tiến bộ không ngừng của sự khẩn hoang Do thái, các effendi hoảng hốt- hoảng sợ cho đến nỗi rằng đây là lần đầu tiên trên đời, họ quyết định bỏ qua các tranh chấp nội bộ để gây một áp lực mạnh hơn nữa đối với ngừơi Anh. Vụ gây áp lực này sớm thấy hiệu quả. Đến mùa xuân năm 1936, khi cơ cấu trung ương phục quốc xin nhiều ngàn chiếu khán cho rất nhiều nam nữ đang bị cơn điên khùng của Hitler đe dọa tới tính mạng, Luân đôn chỉ chấp thuận cho chưa tới một ngàn.

Vị mufti không cần nhiều hơn thế để lại tiếp tục tấn công. Các rối loạn xảy ra ở Jaffa, nơi các tay xách động tuyên truyền cả quyết rằng ở Tel Aviv, người Do thái đã bắt cóc các người Ả rập đem giết đi. Đồng thời mufti tuyên bố thành lập một “Ủy ban Ả rập Tối cao” đặc trách việc tổ chức một cuộc đình công toàn diện để chống lại thái độ “thân Do thái” của người Anh. Thực ra, tàn sát và đình công chỉ là một mặt ngoài che dấu cho các tay giết mướn chuyên nghiệp đi thanh toán một cách có hệ thống những nhân vật Ả rập nào chống lại với đường lối chính trị của mufti.

Cũng vì thế mà Kammal, monktar của làng Abou Yesha là bạn chung thuỷ của Barak Ben Canaan, đã trả giá bằng mạng sống của mình do các liên hệ láng giềng là ông đã duy trì với các nông trường Do thái. Các tay sát nhân của mufti tìm thấy ông đang cầu nguyện trong giáo đường nhỏ ven giòng suối- và chúng đã cắt cổ ông. May mắn thay người con trai là Taha lại trốn thoát được, chạy sang nhà Barak và sống tại đó trong an toàn.

Lần này sự khủng bố đã đưa tới tổng đình công bắt buộc cùng sự tẩy chay ngừơi Do thái: Tình hình toàn xứ lâm nguy. Không còn tìm thấy ngừơi mua, dân Ả rập để các hoa màu của mình thối ủng ngoài đồng. Hải cảng Jaffa bị tê liệt, thương mại trong thành phố đình chỉ. Dĩ nhiên là trong các bài giảng, mufti đổ hết mọi trách nhiệm cho người Do thái, và các dân Ả rập, trước thảm hoạ mỗi ngày một lớn, đã buông thả cho cơn giận dữ của mình. Bây giờ họ táo bạo đến độ tung ra các cuộc dạ kích chống các nông trường Do thái, đốt phá nhà cửa, cướp thực phẩm mang đi. Khi các toán Ả rập này bắt gặp một ngừơi Do thái đi một mình, chúng giết ngay, chặt đầu chặt chân tay, moi mắt người đó.

Mặc dù các tàn bạo dã man này, Haganah, dưới quyền chỉ huy của Avidan, vẫn giữ được một thái độ hoàn toàn phòng thủ. Ngược lại, các Macchabée của Akiba cố gắng hòn đá ném đi thì hòn chì ném lại. Vị trí của họ rất khó khăn: Bị người Anh đặt ra ngoài vòng pháp luật, họ bắt buộc phải rút lui về ba thành phố lớn Tel Aviv, Jérusalem và Haifa- nơi mà các đường phố ngõ hẻm cùng đám đông tạo thành những “bưng biền” rất tốt. Mặc dù “Trung ương” đã hoàn toàn phủ nhận các Macchabée, rất nhiều đoàn viên phục quốc lại tán đồng hoạt động của Akiba một cách bí mật.

Bây giờ toàn thể Hồi giáo vang lên những tiếng kêu gọi điên cuồng của mufti, hô hào thánh chiến chống lại đế quốc Anh và phục quốc Do thái. Lời kêu gọi này có tiếng vang trong vương quốc Irak kế cận, nơi mà Kavouvkji, sĩ quan quân lực chính qui, đã chờ đợi đúng cơ hội này để chứng tỏ tài năng mà đương sự coi như là đặc biệt hiếm có. Mufti đã đặt dưới quyền sử dụng của sĩ quan này một phần số tiền bóc lột được của dân Ả rập Palestine. Với tiền này Kavouvkji đi chiêu mộ các tay buôn thuốc phiện lậu và các tay buôn nô lệ ham mê viễn ảnh được hiếp hàng ngàn phụ nữ Do thái và cướp hàng triệu sterling, đã rời các xóm ăn chơi du đãng của Bagdad và Mossoul để nhập ngũ. Rồi đứng đầu đạo quân này, Kavouvkji vượt qua Liban tiến vào Palestine để đến cứu giúp cái kẻ đang bị “hành hạ” là mufti Hadj Amine.

Không hề lo tới việc tạo chiến thắng, Kavouvkji chỉ giới hạn hành động trong các vụ hành quân nguy hiểm. Xét chung, hoạt động của hắn chỉ giới hạn trong việc phục kích các xe hàng và xe súc vật kéo, hoặc cùng lắm là tung các toán tuần tiễu nhỏ ở những nơi nào có thể rút lui nhanh chóng. Nhưng vậy là đủ mở rộng kinh hoàng trong toàn thể lãnh thổ.

Sau một vài vụ phản kích, người Anh đã mang ra áp dụng một chiến thuật không ai ngờ. Đáng lẽ phải tiêu diệt các toán cướp, họ lại đi xây chung quanh Palestine chừng năm mươi đồn bê tông cốt sắt, mỗi đồn có thể chứa được từ vài trăm đến hàng ngàn người. Đêm tới, người Anh rút quân vào trong các đồn đó- được gọi là các “fort Taggart”, theo tên viên kỹ sư đã đề ra kế hoạch xây cất đó- để mặc các vùng chung quanh không tuần phòng không bảo vệ. Ban ngày, các cuộc hành quân Anh đều chỉ đánh vào khoảng không. Ngay khi một đoàn quân rời đồn, hệ thống “điện thoại Ả rập” hoạt động liền. Chưa kịp tới mục tiêu, địch đã tan biến đâu mất rồi.

Nhưng mặc dù áp lực mỗi lúc mỗi nặng, các di dân mới vẫn tiếp tục đổ vào Palestine và các nông trường mới tiếp tục xuất hiện. Ngày thiết lập nông trường mới, hàng trăm nông dân và thợ thuyền từ các kiboutz đổ xô đến từ sáng tinh sương tới địa điểm đã chọn lựa. Làm việc tận lực từ sáng đến tối, họ xây cất một tháp canh trang bị nhiều đèn pha do một máy phát điện cung cấp điện lực và bao quanh bằng một hàng rào công sự vững chắc. Đêm tới, họ lại ra đi, để những ngừơi mới tới ở lại trong vòng rào dưới sự che chở của một trung đội Haganah.

Trong khoảng thời gian vài tháng, Ari Ben Canaan đã trở thành một chuyên viên trong phương pháp thành lập nông trường kiểu này. Chàng thường thường chỉ huy trung đội bảo vệ, dạy cho các lính mới chiến thuật chống xâm nhập cùng dạ kích của người Ả rập- Các cuộc xâm nhập và dạ kích này không nông trường mới lập nào thoát khỏi được mặc dù lần nào địch cũng bị thất bại. Sau vài tuần, Ari cùng các chiến hữu lại ra đi để trợ giúp một “tháp canh và công sự phòng vệ” khác, nói theo ngôn ngữ thông dụng lúc bấy giờ.

Chậm chạp, tiệm tiến, các người khai hoang vượt qua hàng rào đầu tiên, khai hoang thêm tới đâu lập hàng rào tới đó. Họ xây cất nhà cửa theo kiểu “công sự chiến đấu” để rồi dần dần tạo lập thành một làng thực sự. Nếu nông trường mới này chấp nhận chế độ kibboutz, họ sẽ xây nhà Trẻ Em trước tiên nằm trong trung tâm chu vi phòng thủ để khi địch có xâm nhập, cũng chỉ sau cùng mới tiến tới được.

Sự hỗn xược của người Ả rập, sau cùng cũng làm người Anh phát chán, chịu không nổi, mufti và “ông tướng” Kavouvkji làm cho họ trở thành lố bịch, người Anh ban hành sắc luật huỷ bỏ Uỷ ban Tối cao Ả rập và tống trát bắt giam mufti. Được báo trước kịp thời, ông này trốn vào thánh đường Omar, thánh đường chính của Hồi giáo ở Palestine. Vì người Anh không dám xâm nhập vào nơi tôn nghiêm này, nên sau một tuần lễ trốn tại đây, ông cải trang làm đàn bà và trốn sang Liban.

Tất cả Palestine thốt lên một tiếng thở dài nhẹ nhõm. Các rối loạn xẹp đi rất nhanh và người Anh đã có thể xét lại vấn đề: các uỷ ban điều tra và du hành quan sát liên tiếp xảy ra. Sau cùng người Anh đề ra một giải pháp: chia Palestine làm hai quốc gia khác nhau. Dĩ nhiên các ông Ả rập yêu quý và oai dũng của người Anh được hưởng phần sư tử, còn người Do thái phải hài lòng với phần đất dọc duyên hải giữa Tel Aviv và Haifa cùng một số vùng trong xứ Galilée.

Chán ngán, mệt mỏi, những người phục quốc Do thái ở Palestine quyết định chấp nhận giải pháp này. Chắc chắn là họ không quên rằng giải pháp nguyên thủy của người Anh là thành lập một Quê nhà Do thái nằm hai bên bờ song Jourdain. Nhưng họ mệt rồi- mệt vì máu đã chảy quá nhiều, mệt vì phải chiến đấu xoay xở quá nhiều giữa sự cuồng tín của người Ả rập và sự lừa dối của Luân đôn. Nhưng ngược lại mufti, tị nạn ở Beyrouth lại kêu ầm lên phản đối. Chia đôi Palestine? Không bao giờ! Người Ả rập chỉ hạ vũ khí khi nào người Do thái cuối cùng đã bị ném xuống biển thôi!

Kỹ sư Taggart lại khởi công làm việc. Ông cho dựng một hàng rào điện suốt dọc biên thuỳ Liban để ngăn chặn các tay giết mướn của mufti cùng các đoàn chuyên chở vũ khí. Tăng cường thêm bằng nhiều pháo đài nữa, hàng rào này chỉ làm giảm bớt các xâm nhập chứ không ngăn chặn hẳn được.

Một trong các pháo đài loại này được đặt ở khoang trên Abou Yesha và Yad El, xây cất ở một địa điểm mà theo truyền thuyết có mộ của hoàng hậu Enther. Dân cư trong vùng đó liển gọi pháo đài này là Fort Enther.

Trong cộng đồng Do thái, sau nhiều năm cố giữ một sự dè dặt vừa khó khăn vừa bấp bênh, đoàn Haganah bắt đầu sốt ruột. Liệu bây giờ “trung ương” có chịu cho họ chủ động trên bình diện quân sự chưa? Sau cùng Ben Gourion nhượng bộ trước áp lực của Avidan và chấp nhận cho mua một khoảng đất nằm ở cực bắc xứ Galilée, dọc theo biên thuỳ Liban. Theo tin tức của cơ quan tình báo của Haganah, chỗ đó chính là điểm các đoàn Ả rập đi qua.

Một vài ngày sau khi việc mua bán đất xong xuôi, Ari Ben Canaan cùng hai cấp chỉ huy khác nữa của Haganah được lệnh gọi tới trình diện Bộ tư lệnh bí mật của Avidan.

– Các anh hãy nhìn bản đồ đây. Các anh hiểu dễ dàng tính cách quan trọng của vị trí này. Các anh sẽ chỉ huy một đơn vị đặc trách việc thành lập một kibboutz ở ngay chỗ đó. Không nói, các anh cũng thừa biết đây không phải là một vụ đi cắm trại thú vị. Tên mufti ấy sẽ cố gắng tối đa để trục xuất các anh. Và các anh phải tử thủ với bất cứ giá nào: đây là lần đầu tiên chúng ta chọn lựa một địa điểm làm nông trường hoàn toàn vì lý do chiến lược.

Sarah cố kìm nước mắt. Từ biết bao nhiêu năm, bà chỉ nhìn thấy con trai không roi da thì súng ở trong tầm tay. Nhiệm vụ mới mà thượng cấp trao phó cho Ari có vẻ nguy hiểm hơn tất cả các nhiệm vụ từ trước tới nay. Tám mươi thanh niên và hai mươi thanh nữ, tuyển chọn trong các phần tử ưu tú nhất của Haganah, sẽ hợp thành một đoàn quyết tử thực sự. Rất bình tĩnh, Ari hôn mẹ, nói bà hãy lau nước mắt và cho rằng mọi sự rồi sẽ tốt đẹp đâu vào đấy không việc gì phải lo. Rồi Ari, không nói một tiếng, xiết tay bố: hai người đàn ông không cần phải lời nói cũng hiểu được nhau. Dafna gõ cửa vào giã từ bố mẹ chồng tương lai. Rồi cặp trai gái trẻ tuổi ra đi, vẫy tay chào các thân bằng quyến hữu tụ tập ở vòng rào. Barak thở dài, vòng tay ôm đôi vai run rẩy của vợ. Sarah nói nhỏ:

– Trong đời các con, chúng chỉ được biết mỗi một điều: Chiến tranh. Chúng ta còn phải dâng hiến con chúng ta cho chiến tranh đến bao giờ nữa?
– Mình hãy nhớ rằng Thượng đế đã yêu cầu Abraham hy sinh con trai cho Thượng đế. Những ngừơi phục quốc Do thái chúng ta sống trong truyền thống này. Chúng ta phải cho Ari đi ngày nào Thượng đế còn đòi hỏi như thế.

13
Mười xe vận tải chở một trăm đoàn viên nam nữ của Haganah cùng đồ trang bị chạy theo con lộ duyên hải, vượt qua kibboutz cuối cùng nằm ở cực bắc Galilée, tiến vào một vùng mà từ trước tới giờ chưa một người Do thái nào dám phiêu lưu đặt chân tới. Hàng ngàn cặp mắt Ả rập theo dõi đoàn xe bây giờ đã tiến vào vùng núi biên thuỳ Liban.

Đến địa điểm đã được chọn lựa thành lập Ha Mischmar (Người lính gác giặc), các xe dừng lại. Mọi người đặt lính canh phòng, mang mọi thứ xuống xe. Rồi đoàn xe ra đi ngay để có thể đến kịp nông trường Do thái đầu tiên trước khi trời đổ tối. Đoàn người nhỏ bé ở lại cô đơn giữa các ngọn đồi đầy rẫy các tay khủng bố Ả rập.

Họ dựng lên một hàng rào, bố trí bên trong và chờ đợi suốt đêm.

– Tụi Do thái đã tới cư ngụ trong vùng đồi!

Điên lên vì tức giận, mufti thề với Thượng đế của hắn là sẽ rửa mối nhục này trong máu và sẽ không để một đứa nào trong cái tụi hỗn láo này trốn thoát.

Trong ba ngày liền, đoàn người làm việc tới kiệt lực, tăng cường hệ thống phòng thủ của căn cứ. Đêm đến, Dafna và Ari sau khi mãn phiên canh, tìm nhau ngủ trong vòng tay nhau.

Đêm thứ tư, địch tấn công.

Chưa bao giờ người Do thái phải đương đầu với cơn bão tố lớn như vậy. Trong năm giờ liền, vài ngàn Ả rập trang bị vũ khí cá nhân và được liên thanh yểm trợ trút cả cơn mưa đạn vào vòng hàng rào, bên Do thái chờ đợi cuộc xung phong. Sau cùng, các tổ báo động báo hiệu địch tấn công đợt đầu: hàng ngàn bóng đen bò sát đất tiến tới, răng ngậm chặt dao găm.

Đột nhiên sáu đèn pha bừng bật sáng trên tháp canh, quét sáng tứ bề. Bị quáng mắt vì đèn, quân Ả rập khựng lại. Đoàn Haganah khai hoả. Trong vài giây đồng hồ, bên tấn công đã bị thiệt chừng năm mươi người. Sợ hãi, quân Ả rập bắt đầu lùi lại. Nhưng Ari đã cầm đầu một nửa lực lượng Do thái mở vòng rào xông ra phản công, biến cuộc rút lui của Ả rập thành thảm bại. Các Ả rập sống sót bỏ chạy vào đồi núi chung quanh, kinh sợ la hét.

Trong trận giao tranh đầu tiên này, Haganah có bốn người chết, một cô gái và ba thanh niên. Nhưng cả những lời hò hét của mufti lẫn các lời thúc dục của Kavouvkji cũng không làm sao quân Ả rập tiến lên lần thứ hai. Bài học đã có nhiều hiệu quả: trong suốt một tuần lễ, quân Ả rập không nhúc nhích. Nhưng bên Do thái, viên đơn vị trưởng đã tử trận trong trận giao tranh đầu và Ari lên thay.

Mỗi ngày, Haganah tiến từ mười đến hai mươi mét về phía đỉnh đồi, củng cố vị trí mới và cố thủ qua đêm. Quân Ả rập quan sát sự tiến quân này, nhưng không can thiệp. Sau một tuần lễ, Ari quyết định bỏ trại căn cứ để lập một trại khác ở lưng chừng đồi.

Khi ấy, Ả rập lại tấn công. Nhưng lần này họ không dám xung phong, chỉ nổ súng từ phía xa. Ari chờ đợi thêm một tuần nữa, rồi đột nhiên cho lệnh tấn công. Một sáng tinh sương, dẫn đầu hai mươi thanh niên và mười thanh nữ, chàng lao lên đánh bật tung các quân Ả rập bắt đầu thiếp ngủ sau một đêm quấy phá, rồi chiếm luôn đỉnh đồi. Địch phản công nhưng bị đẩy lui. Dĩ nhiên là Ari thiệt thêm năm người nữa nhưng ngược lại, chàng đã chiếm được một vị trí khống chế được toàn vùng. Và bên Ả rập ý thức rất nhanh rằng chàng sẽ không để cho họ trục xuất ra khỏi vị trí ấy.

Nếu họ không tung ra một nỗ lực quan trọng nào để chiếm lại quả đồi, họ lại quấy phá Do thái suốt ngày đêm. Tình hình của Ha Mishmar vẫn còn bấp bênh. Nông trường hoàn toàn bị cô lập: kibboutz gần nhất cũng cách đó cả mấy chục cây số. Lương thực đạn dược và ngay cả đến nước uống đều phải mang đến bằng xe vận tải qua một vùng thù nghịch đến trại căn cứ đầu tiên, rồi sau đó chuyển bằng sức người lên đỉnh đồi.

Tuy vậy, Ha Mishmar vẫn giữ vững. Đạo quân đồn trú xây cất vài căn nhà ở phía trong vòng rào, vạch cả một con đường dẫn xuống chân đồi nữa. Ari bắt đầu tung ra các toán tuần tiễu dọc theo tuyến Taggart để ngăn chặn các tay khủng bố Ả rập. Dần dần Haganah ngăn chặn được đường chuyển quân của các toán khủng bố Ả rập giữa Liban và Palestine.

Một ngày nọ, phép màu thực hiện: Ha Mishmar gieo thửa ruộng đầu tiên! Họ tới đây để xây dựng một kibboutz mà, có đúng thế không? Vậy thì, mặc dù gió to bão lớn kibboutz sẽ được thực hiện. Đất dốc? Thì ta làm ruộng theo từng nấc thang. Không có nước sao? Chỉ việc đào giếng. Thiếu nông cụ? Thì Quỹ Lập Nghiệp Do thái cứ việc dốc hầu bao đi mua.

.

Ari đang ngủ say sưa trong lều thì một bàn tay lay dậy.
– Dậy anh! Nhanh lên.

Chàng tung chăn, nắm lấy súng và chạy theo người đánh thức mình chạy về cánh đồng phía nam, nơi mà mọi người bắt đầu trồng nho. Một đám đông đã tụ tập. Khi thấy Ari tới, mọi người im lặng. Chàng vượt qua vòng người, đứng lại nhìn chăm chú mặt đất. Dưới ánh sáng của đèn pin, mọi ngừơi nhận thấy các mảnh vải rách nát của một chiếc áo xanh lẫn lộn với các đất vụn máu bám tung tóe. Máu nhỏ giọt thành vệt tiến xa dần về phía vùng đồi chung quanh. Ngơ ngác, Ari dò hỏi nhìn mọi người chung quanh, mọi người đều tránh không nhìn mặt chàng. Ari chợt hiểu, thì thào:
– Dafna! Dafna…

Hai ngày sau, các tên sát nhân đặt xác thiếu nữ trẻ gần trại. Nàng đã bị cắt tay, cắt mũi, cắt chân, moi mắt và bị hiếp ít nhất là năm mươi lần.

Không ai nghe thấy Ari thốt lên một tiếng rên, không ai trông thấy chàng nhỏ một giọt nước mắt.

Nhưng thỉnh thoảng chàng biến đi đâu mất trong nhiều giờ và khi chàng trở về, mọi ngừơi đều thấy mặt chàng tái ngắt, môi run run. Không bao giờ chàng để cho thất vọng xâm chiếm, không bao giờ chàng để cho cơn giận bùng nổ. Chàng cũng không nhắc đến tên của cả vị hôn thê nữa. Tất cả làng Ả rập trong vùng Ha Mishmar đều run rẩy chờ đợi cuộc trả thù. Nhưng cuộc báo thù không xảy ra.

Không những không hài lòng với việc giữ chắc được Ha Mishmar, phục quốc Do thái còn thành lập thêm khoảng mười nông trường tương tự, cũng tại những địa điểm được lựa chọn vì giá trị chiến lược. Chiến thuật này làm giảm bớt và gây khó khăn cho các toán khủng bố của mufti, nhưng không diệt được hẳn.

Trong tình hình hỗn độn và gay cấn này, đột nhiên xuất hiện vóc dáng cao gầy của Ngài P. P. Malcolm, thiếu tá trong quân lực Anh hoàng.

Thiết tá Malcolm được thuyên chuyển sang Palestine và bổ nhiệm vào ngành tình báo Anh ngay từ khởi đầu cuộc khởi loạn của mufti. Đó là một con người cô đơn và độc đáo. Ông ăn mặc lè phè coi thường cả các truyền thống lẫn thủ tục của quân đội, diễn tả các ý nghĩ của mình một cách minh xác và nếu cần, dữ dội nữa. Đôi khi ông trầm tư cả ngày liền- trầm tư sâu xa đến độ quên cả cạo râu lẫn chải đầu. Và ngoài ra vì ông còn rất cao rất gầy và đi hơi khập khễnh nữa, nên các bạn bè coi ông như một “típ không chịu nổi”.

Khi mới tới Palestine, ông thân Ả rập chỉ vì lý do là một sĩ quan Anh phải thân Ả rập. Thứ cảm tình “thời trang” này không đứng vững được lâu khi phải va chạm với thực tại. Trong khoảng thời gian vài tuần lễ, P. P. Malcolm đã trở thành một người ủng hộ phong trào phục quốc Do thái nhiệt thành.

Cũng như hầu hết những Kitô giáo khác bị chủ nghĩa phục quốc Do thái chinh phục, ông tỏ ra đam mê hăng hái cuồng nhiệt với phong trào hơn chính người Do thái nữa.Ông học tiếng hébreu với một rabbin để có thể đọc được Kinh Thánh trong những giờ rảnh rỗi, tin chắc rằng sự phục sinh Do thái phù hợp với ý muốn của thần thánh, ông nghiên cứu tỉ mỉ các chiến trận trong Cựu Ước. Và cứ đồng hoá mình với Josué, David và Gédéon, ông đâm ra tin chắc rằng sự kiện ông tới Palestine là do ý chí của Đấng Tối Cao. Ngài, với khôn ngoan vô tận của Ngài, đã chọn thiếu tá P. P. Malcolm để dẫn đầu đoàn thập tự quân của các con dân Israel.

Trên một chiếc xe mua lại, chiếc xe ngày xưa chắc cũng có thời trông được, ông đi khắp Palestine. Khi đường xá xe đi không nổi nữa, ông tiếp tục đi bộ, cà rịch cà tang, vừa đi vừa hát vang một bài thánh ca ông ưa thích nhất. Với phong thái như vậy, một chiều nọ trên đường tới Yad El, hai bánh xe bị nổ, ông tiến vào chu vi phòng vệ của nông trường, các lính canh đã đổ xô lại. Tươi cười, ông vẫy tay chào:

– Tốt lắm! Ít nhất các chú đã không ngủ gục khi canh! Bây giờ các chú hãy tử tế dẫn tôi đến gặp Barak Ben Canaan.

Trong văn phòng của Barak, ông mở đầu câu chuyện bằng cách đọc một bài diễn văn dài ca tụng sự đẹp đẽ của chủ nghĩa phục quốc Do thái cùng vận mệnh huy hoàng của quốc gia Do thái. Tuy vậy, sau chừng một giờ đồng hồ, ông cũng hạ cố bàn đến vấn đề loại thức tế hơn.

– Theo tôi, người lính Do thái là một trong những ngừơi lính ưu tú của thế gian này, nếu không phải là giỏi nhất. Họ chiến đấu cho một lý tưởng luôn luôn hiện hữu và sống với lý tưởng này. Chất liệu nhân sự của Haganah hoàn toàn đặc biệt. Này đây, tôi có ý định lấy chất liệu nhân sự để tạo ra một tổ chức chiến đấu chưa có bao giờ trên thế gian. Chính vì mục đích này, tôi đã tới đây.

Barak mở to mắt ra nhìn. Malcolm cũng không thèm để ý. Quay mặt về phía cửa sổ, ông nhìn, qua các cánh đồng xanh tươi dưới làn nước như mưa phát từ các máy tưới, về phía các quả đồi- khống chế bởi hình dáng cục mịch của Fort Esther. Ông nói tiếp:
– Coi đây này, nhìn cái đồn trên cao kia… lại thêm một bằng chứng nữa về sự ngu xuẩn của người Anh. Dân Ả rập chỉ việc đi vòng quanh là xong, một đứa bé cũng thừa biết như thế.

Ông vụt quay lại nhìn Barak bằng cái nhìn đột nhiên bốc lửa, cũng vẫn thứ nhìn mà Barak thường thấy trong mắt Akiba.
– Các anh chiến đấu đi chứ, trời đất thánh thần ơi, đợi gì nữa! Giải pháp duy nhất! Chiến đấu. Thiên mệnh của dân Do thái là chiến đấu để trở thành một quốc gia.
– Về điểm này, ông thuyết phục một kẻ đã tin theo từ lâu rồi. Ông khỏi cần nhắc lại là chúng tôi phải chiến đấu.
– Phải nhắc chứ! Phải nhắc đi nhắc lại hoài cho các anh ngày nào các anh còn thu mình trong bốn bức tường rào, của các nông trường. Tin ở tôi đi, đã đến lúc các anh xông ra ngoài, trừng phạt cái tụi khốn nạn ấy. Mỗi khi một tên Ả rập ra khỏi một quán cà phê và vác súng bắn các anh cách cả ngàn thước, hắn đã cho hắn là anh hung rồi. Được, chúng ta sẽ cho tụi vô đạo ấy biết tay! Tôi tin cậy ở anh xin cho tôi hội kiến với Avidan ngay lập tức. Người Anh thiển cận quá khó để hiểu các phương pháp của tôi.

Tới đây, Malcolm đột nhiên ra đi cũng như bất ngờ đến đây, để lại cho một Barak ngồi phân vân, gãi đầu.

Sau đó Barak quyết định gọi điện thoại cho Avidan. Hai người nói chuyện với nhau bằng tiếng Yeddish để đề phòng có người Ả rập nghe trộm. Barak hỏi:
– Cái anh chàng thiếu tá Anh đó là ai vậy? Hắn rơi từ trên trời xuống như một đấng cứu thế vậy và thuyết cho tôi một bài về chủ nghĩa phục quốc Do thái…

Avidan nói:
– Chúng tôi có nhiều báo cáo về hắn. Thành thật mà nói, hắn có vẻ kỳ dị đến độ tôi cũng không biết nghĩ ra sao nữa.
– Có thể tin được hắn không?
– Tôi cũng không biết.

Bây giờ thiếu tá P. P. Malcolm để hết các thì giờ rảnh của mình để sống với người Do thái, tuyên bố công khai là các sĩ quan Anh ngốc lắm và chán chết. Sau chừng vài tháng, tất cả dân Do thái ở Palestine đều biết tới ông. Mới đầu, mọi người coi Malcolm như một kẻ lập dị dở hơi vô hại. “Anh chàng Anh tốc của chúng ta” như mọi người thường nhắc đến một cách mỉa mai đượm tình thương mến. Tuy thế, dần dần mọi người nhận ra nhân vật này không hề tốc tí nào. Ông có khả năng thuyết phục đến nỗi có thể bán được cả thập tự giá cho quỷ.

Các cấp chỉ đạo của “Trung ương” bịa hết cớ này đến cớ khác để không tiếp Malcolm. Cho đến một hôm, không thèm báo trước, ông xông thẳng vào văn phòng Ben Gourion, lớn tiếng:
– Ông nghe đây! Ông chỉ là một người ngu! Ông để mất thì giờ bàn cãi với kẻ địch mà lại không có được năm phút để bàn luận với một người bạn.

Ben Gourion không có dịp tìm câu trả lời. Viên thiếu tá đã ra đi rồi; đóng sầm cửa lại.

Cuộc vận động kế tiếp của Malcolm, để có một buổi được tướng Charles tổng trấn Palestine tiếp kiến. Malcolm xin phép được thí nghiệm các lý thuyết du kích chiến của mình bằng cách sử dụng quân sĩ Do thái. Chắc chắn là tướng Charles thân Ả rập rồi, cũng như đa số sĩ quan trong bộ tham mưu của ông, nhưng cuộc khởi loạn của mufti đã bắt đầu làm ông bị mọi người chế riễu. Đến nỗi rằng ông đã bí mật cho thành lập, trang bị và huấn luyện một đoàn cảnh sát Do thái cùng nhắm mắt bỏ qua mọi vụ buôn lậu vũ khí của Haganah. Sau khi do dự một lần chót, và trứơc sự thất bại hoàn toàn của các cố gắng của mình, tướng Charles báo cho thiếu tá Malcolm biết là chấp thuận cho toàn quyền hành động.

Vài tuần sau, chiếc xe của Malcolm hục hặc dừng lại trước cổng nông trường Ha Mishmar. Một lính canh đưa ông vào Bộ chỉ huy của Ari lập trên đỉnh đồi. Không thèm phật ý vì thái độ ngạc nhiên châm chọc của người thanh niên to lớn này, Malcolm đưa tay vỗ má Ari như vỗ má con.

– Chú có vẻ khá đấy. Chú chỉ việc nghe tôi, quan sát tôi và thi hành lệnh tôi, là tôi sẽ làm cho chú trở thành một quân nhân ưu tú. Bây giờ, chú có bản đồ chứ? Tốt. Chú hãy chỉ cho tôi căn cứ xuất phát của tụi Ả rập.

Nửa bất mãn, nửa bị khuất phục, Ari chỉ một làng cách đó chừng mười lăm cây số, trong lãnh thổ Liban. Malcolm phớt lạnh nói:
– Gan thế thôi hả? Được, tối nay chúng ta sẽ phá tan căn cứ đó.

Đêm tới, Malcolm cầm đầu một toán quân gồm tám thanh niên hai thanh nữ, băng qua biên giới. Các người Do thái kinh ngạc khi thấy cái ông già năm mươi khập khễnh và gầy lêu kêu này băng qua các sườn dốc một cách dễ dàng. Trước khi khởi hành, ông đã đe dọa rồi: Kẻ nào theo không kịp, sẽ biết tay ông. Thật là kỳ lạ khi nghe lời đe doạ này, không ai dám cười cả.

Khi tới gần mục tiêu, Malcolm tiến lên trước để thám sát địa hình địa vật. Nửa giờ sau ông trở lại:
– Đúng như tôi đoán, chúng không thèm đặt lính canh. Đây, chúng ta làm ăn như sau…

Bằng vài nét bút chì, ông vẽ phác một sơ đồ.
– Tôi sẽ lấy theo ba chú tiến vào tận giữa làng. Bọn tôi sẽ bắn vào các nhà, ném dăm ba trái lựu đạn để đánh thức bọn chúng dậy. Họ sẽ chuồn lẹ và khi đó chúng tôi sẽ xua họ về điểm này, đầu làng, nơi Ben Canaan đã dăng sẵn một ổ phục kích. À! Tôi quên: Ben Canaan, chú làm ơn bắt cho tôi một hay hai tù binh. Tôi sẽ thẩm vấn chúng: Chắc chắn các vùng quanh đây đầy chỗ dấu vũ khí.

Ari phản đối:
– Làm thế thật là điên. Kế hoạch của ông không thực hiện được đâu.
– Nếu chú tin vậy, tôi chỉ yêu cầu chú một việc là chú lên đường về nhà đi.

Ari không bao giờ còn nghi ngờ tính cách khôn ngoan các lệnh của Malcolm nữa. Niềm tự tín người Anh này lan truyền nhanh như dùng thuật thôi miên vậy.

Vậy kế hoạch đã được thi hành và mọi sự đã diễn ra đúng như tiên liệu. Trong mười phút, tất cả mọi sự xong xuôi. Bên Ả rập bị mất chừng ba mươi người chết, chưa kể số bị thương đã nhờ bóng tối chạy thoát. Bên Do thái bắt được hai tù binh, áp tải tới trước thiếu tá Malcolm. Ông này hỏi người thứ nhất bằng tiếng Ả rập.
– Vũ khí của các anh dấu đâu?

Người tù binh nhún vai. Một cái tát không làm cho hắn nhận định rõ hơn tình hình. Malcolm rút súng lục ra và lạnh lùng bắn cho hắn một phát vào đầu. Kế đó, ông quay lại người tù binh thứ hai và nhắc lại câu hỏi. Ấp úng vì sợ, hắn thú luôn cả loạt địa điểm chon dấu vũ khí.

Cuộc tấn công đầu tiên của Haganah đã làm giảm bớt hăng hái của các toán quân mufti. Ngược lại, nó gây ra cả một vụ ồn ào phản đối trong Bộ Tổng tư lệnh Anh. Rất nhiều sĩ quan cao cấp đòi triệu hồi ngay thiếu tá Malcolm. Tuy vậy tướng Charles vẫn phớt lạnh. Cho tới giờ, các phương pháp của người Anh đã thất bại một cách thảm hại trong việc chống lại các tay khủng bố Ả rập nên ông thích để mặc cho sĩ quan thuộc cấp đặc biệt ấy hành động, kẻ mà ông tin có lẽ đủ sức giải quyết vấn đề.

Malcolm lợi dụng tình trạng trên để thực hiện một kế hoạch đã soạn thảo xong từ lâu: Thành lập một đơn vị lưu động. Ông điều đình được với Haganah “cho mượn” một trăm năm mươi người chọn lựa hết sức cẩn thận cùng Ari Ben Canaan, kẻ mà ông cho là có tài chỉ huy đặc biệt. Vài tuần lễ sau, các “Raider” bắt đầu lâm chiến.

Đây là cả một vụ khám phá mới lạ và hàng loạt thành công chớp nhoáng. Các toán khủng bố Ả rập không biết khi nào, nơi nào các “Raider” sẽ tung ra trận đánh kế tiếp. Lần đầu tiên, hệ thống “điện thoại Ả rập” tỏ ra vô hiệu. Khi thì Malcolm chia quân làm ba đoàn tiến về ba hướng khác nhau, khi thì cho quân đi qua một làng khả nghi, đi vòng năm cây số ngược lại rồi ào tới tấn công. Hoặc ông cho một đoàn xe lên đường sau khi đã huấn luyện cho quân sĩ cách nhảy xuống từng người một trong khi xe đang chạy, nấp vào trong bờ bụi đợi tới tối mới tập họp lại để tấn công địch hoàn toàn bất ngờ. Rất nhanh chóng, cuộc khởi loạn bị dẹp, bị truy lùng, mất dần khí thế để rồi sau cùng tắt hẳn. Với một trăm năm mươi người, Malcolm đã thành công trong việc quét sạch khỏi Palestine những toán quân của ‘Quân lực Giải phóng”, tàn quân rải rác còn lại vượt biên thuỳ trở lại Liban. Nếu mufti là một người yêu nước, dù sai lầm nhưng thành thật, khi tổng kết thành tích hoạt động của ông cũng làm ông kinh hãi: Trong ba năm trời đẫm máu, ông chỉ đẩy người Ả rập ở Palestine vào một tình trạng nghèo khốn cùng cực mà không chiếm nổi một nông trường nào, và cũng chẳng cản được người Do thái thành lập thêm chừng năm mươi nông trường mới.

Yên tĩnh đã trở lại, Whitehall xét lại toàn diện chính sách của mình trong lãnh thổ uỷ trị.

Để bắt đầu, người Anh cho triệu hồi thiếu tá Malcolm. Kế đó, tướng Charles bị thay thế vì bị coi là quá mềm yếu, và tướng Haven Hurst sang thay. Để thay đổi tới nơi tới chốn, tất cả những nhân vật cao cấp trong hệ thống cai trị quân sự cũng bị thay thế nốt. Các chủ nhân ông mới khai trương triều đại của họ bằng cách nhốt tất cả các quân sĩ trong “Raider”. Một toà án quân sự kết án họ từ sáu tháng đến năm năm tù- vì tội mang vũ khí bất hợp pháp!

Bị giam cùng các bạn trong nhà tù vĩ đại Acre, đầy chấy rận, chuột, bùn lầy và không khí hôi thối, Ari, được phóng thích vào mùa xuân 1939. Xanh xao, gầy đi, chàng trở về Yad El kịp thời để được biết rằng ngừơi Anh, trong một cuốn Bạch thư mới, cấm tất cả mọi sự di nhập vào Palestine cùng mua đất tại xứ này. Sự kiện này có nghĩa là, ngay trước khi đệ nhị thế chiến bùng nổ, Neville Chamberlain, kẻ ủng hộ chính sách hoà dịu với bất cứ giá nào, đã không thèm chú trọng, không biết đến bao nhiêu ngàn ngàn Do thái Đức đang bị Quốc Xã đe dọa diệt chủng. Xét cho cùng, ông là chính khách chuyên che dù, cũng đã có thói quen bỏ rơi thiên hạ rồi: ông cũng đã từng bỏ rơi phe cộng hoà Tây ban nha và dân tộc Tiệp khắc trong những năm về trước đó sao?

14
Cuốn Bạch thư của người Anh có hậu quả đầu tiên là khơi dậy phong trào đã bắt đầu im ngủ của các Macchabée . Rất nhiều người Do thái từ trước cho tới giờ vẫn phản đối các phương sách bạo động dữ dội của nhóm này, bây giờ cũng ủng hộ hoàn toàn. Ngay lập tức, các Macchabée lâm chiến, tung ra nhiều cuộc xung kích vào các làng Ả rập, làm nổ một trái bom trong một câu lạc bộ sĩ quan Anh ở Jérusalem, cướp một kho vũ khí Anh và tấn công nhiều đoàn xe nhà binh.

Tướng Haven Hurst phản ứng ngay lập tức: giải tán cảnh sát Do thái, cấm đoán đoàn Haganah làm hại đoàn này bắt buộc phải biến thành tổ chức bí mật. Sợ điều tệ nhất sẽ xảy ra, Avidan phải dùng hết uy tín của mình để kìm giữ quân mình đang tức giận, nghĩ tới chuyện dàn trận đánh nhau với người Anh một trận sống mái. Một chuyện điên rồ như vậy chắc chắn sẽ đưa đến chỗ tiêu diệt lực lượng quân sự duy nhất người Do thái hiện có ở Palestine.

Trong thời gian này tình thế những người Do thái Đức, sau khi đã ở tình trạng báo động trong sáu năm, đã tới lúc hoàn toàn tuyệt vọng. Văn phòng của phục quốc Do thái ở Berlin bị hàng ngàn đàn ông đàn bà bao vây, họ sẵn lòng hy sinh tất cả những gì họ có để đổi lấy quyền được rời bỏ nước Đức. Khi những viên chức của phục quốc Do thái bị công việc quá tràn ngập, yêu cầu tăng viện, “Trung ương” ở Jérusalem quyết định gởi Ari Ben Canaan sang. Cuộc viễn hành thật khó khăn. Người Anh nghi ngờ một kẻ mà họ biết rõ các liên hệ chặt chẽ với Haganah. Ari phải rời xứ một cách bí mật qua vùng biên thuỳ Liban mà chàng biết rõ, tiếp tục đi bộ đến tận Beyrouth để từ nơi đó, nhờ sổ thông hành của một người Do thái mới tới với tư cách “du khách”, chàng đã có thể lên một chiếc tàu đi Marseille. Một tuần lễ sau, chàng đã đến được văn phòng của phục quốc Do thái tại Bá linh bình yên vô sự.

Các chỉ thị Ari nhận được rất giản dị: “Hãy cố đưa tối đa người Do thái ra khỏi nước Đức”. Nhưng thực hiện các chỉ thị này lại vấp vào các trở ngại ghê gớm. Tất cả vấn đề xoay quanh việc xin chiếu khán vào một quốc gia khác- bất luận quốc gia nào. Một chiếu khán, là một mạng người, do đó người ta tìm cách mua, ăn cắp, giả mạo. Thế mà đa số các quốc gia đã bộc lộ sự “hăng hái” khá hạn chế với ý nghĩ tiếp nhận những người Do thái Đức vào lãnh thổ mình- Quốc gia này ngại vì đó là những người Do thái, quốc gia khác ngại vì đó là những người Đức. Ari phải xoay xở đêm ngày mới kiếm được một phần nhỏ số chiếu khán cần có. Trong suốt mùa hè thê thảm 1939, hầu như chàng làm việc hai mươi bốn trên hai mươi bốn giờ mỗi ngày, vì tin tưởng rằng các biến cố sẽ không để cho chàng nhiều thì giờ nữa.

Vào khoảng giữa tháng tám, một điện văn khẩn của Mossad ở Pháp ra lệnh cho chàng rời Đức quốc ngay lập tức. Chàng coi điện văn này như không có và tiếp tục cuộc chạy đua với gìong lịch sử. Một điện văn thứ hai, lần này phát xuất từ Haganah, ra lệnh cho chàng phải lên đường tức khắc. Ari liều bất tuân trong bảy mươi hai tiếng nữa để đủ thì giờ phân phối xong năm trăm chiếu khán cho phép gửi một đoàn tàu trẻ em sang Đan mạch. Và cũng là đủ thì giờ nhận thêm một điện văn thứ ba và thứ tư nữa.

Vào giờ khắc mà đoàn tàu vượt biên giới Đan mạch vô sự, Ari mới nghĩ tới việc thoát thân cho chính mình. Chàng thoát ra khỏi được nước Đức đúng hai ngày trước khi quân Đức Quốc xã xâm lăng Ba lan.

Đệ nhị thế chiến vừa bùng nổ, “Trung ương” Do thái ở Jérusalem đã triệu tập phiên họp bất thường. Trong vòng chưa đến mười phút, các lãnh tụ Do thái ở Palestine đã đồng ý quyết nghị xong về đường lối của mình: tất cả thanh niên Do thái sẽ tình nguyện nhập ngũ vào quân lực Anh để chiến đấu chống kẻ thù chung.

Quyết định trên được Haganah tán thành toàn diện vì thấy đây là một cơ hội ngàn năm một thuở để huấn luyện quân sĩ sử dụng các vũ khí tối tân một cách chính thức và hợp pháp nữa.

Tướng Haven Hurst cũng nhìn thấy cơ hội đó, nhưng ông lại nhận định dưới một khía cạnh khác. Ông viết trong một báo cáo gửi War Office như sau:

“Khi huấn luyện các quân sĩ Do thái bằng cách mang lại cho họ kinh nghiệm chiến đấu, chúng ta sẽ đi ngược với quyền lợi của chúng ta. Bởi vì sớm hay muộn, chúng ta cũng phải chiến đấu chống lại chính những người Do thái này.”

Xét cho cùng, có lẽ tướng Haven Hurst ít thiển cận hơn nhiều người đã tưởng.

Trong khoảng thời gian một tuần lễ, một trăm ba mươi ngàn nam nữ- một phần ba tổng số dân Do thái ở Palestine- đã ghi tên ở “Trung ương” để xin tình nguyện chiến đấu trong hàng ngũ quân đội Anh.

War Office không thể lờ đi không nhận một đề nghị thành thực có lợi cho Anh như vậy, nhưng cũng không thể bỏ qua lời cảnh cáo của Haven Hurst. Bộ Quốc phòng sau cùng đã chấp thuận một giải pháp trung dung: Các chức quyền quân sự sẽ thu nhận những người Do thái tình nguyện đầu quân, nhưng từ chối dùng họ vào các đơn vị chiến đấu, sung họ vào ngành Quân vận và Công binh, các dân Do thái Palestine thấy mình mất cơ hội để học cách sử dụng võ khí tối tân cùng chiến thuật tại chiến trường. Dĩ nhiên là “Trung ương” phản đối, đòi hỏi các chức quyền Anh cho quân Do thái có dịp chiến đấu trức tiếp chống Đức, nhưng một lần nữa các đòi hỏi của người Do thái không đi đến đâu.

Tuy vậy mặt trận thống nhất của phong trào phục quốc có một khe hở: Nhóm ly khai Macchabée. Avidan quyết định dẹp tự ái sang một bên, nhờ trung gian của nhiều người, báo cho Akiba biết là ông muốn gặp.

Buổi hội kiến xảy ra ở Jérusalem, trong hầm của một tiệm ăn lớn, giữa các két đồ hộp và thùng rượu. Đến trước, Avidan cố tình không bắt tay vị thủ lãnh của đoàn Macchabée. Avidan nói thẳng ngay vào vấn đề:

-Tôi muốn gặp anh chỉ vì một lý do. Tôi muốn anh tuyên bố đình chiến với người Anh cho tới khi chiến tranh chấm dứt.

Đúng như ông đã chờ đợi, Akiba lên tiếng thuyết một hồi dài trong đó lòng căm thù người Anh lẫn lộn với niềm căm tức của ông đối với thái độ thụ động của “Trung ương”. Sau cùng Avidan ngắt lời:

– Tôi xin anh. Anh không cho tôi biết thêm điều gì mới cả. Tôi biết các tình cảm của anh, tôi biết rất chính xác cái gì ràng buộc, cái gì chia rẽ chúng ta. Nhưng mặc dù thế, Đức vẫn là một kẻ thù nguy hiểm hơn người Anh rất nhiều.

– Có thể. Nhưng dẫu sao đây chính là lúc đòi hỏi Luân đôn phải thâu hồi Bạch thư lại, phải công bố thành lập Quốc gia Do thái nằm hai bên bờ song Jourdain! Chính lúc này đây, hoặc chẳng bao giờ có nữa. Anh quốc đang lung lay, đây là lúc nắm ngay lấy cổ hắn!

– Theo ý anh, việc đưa Quê nhà Do thái trở thành Quốc gia đã quan trọng đến nỗi chúng ta phải góp công cho Đức chiến thắng hay sao?

Akiba đi đi lại lại trong hầm. Nóng nảy, tức giận, ông làu nhàu những lời buộc tội hăng hái:

– Như vậy là dù quân Anh phong toả bờ biển Palestine… dù rằng trong quân lực của họ, họ duy trì quân sĩ ta trong một thứ ghetto… dù họ đánh lừa chúng ta không thương tiếc… chúng ta vẫn cứ phải hợp tác với họ.

Đột nhiên Akiba đứng lại, nói bằng một giọng run run:

– Được rồi! Đồng ý, anh Avidan. Các Macchabée tuyên bố đình chiến.

Hai người nghiêm trọng bắt tay nhau. Akiba hỏi một cách rụt rè:

– Anh tôi dạo này ra sao?
– Barak vừa mới về. Anh đi dự một hội nghị ở Luân đôn.
– Chắc chắn thế rồi, lại một hội nghị nữa. Ông ấy chỉ thích có vậy. Còn chị Sarah và các cháu?
– Mọi người mạnh khoẻ cả. Anh có thể tự hào về cháu Ari của anh.
– Phải. Đó là một thanh niên rất khá. Tôi muốn gặp lại nó…

Không trả lời, Avidan tiến về phía cầu thang. Khi ông nâng nắp hầm lên, ông nghe thấy Akiba đọc lớn tiếng trong bóng tối:
– Những kẻ ác và tội lỗi sẽ bị tiêu diệt và những kẻ nào quên đấng Vĩnh cửu sẽ bị sét đánh. Một ngày kia bọn Anh sẽ phải thanh toán ân oán với chúng ta!

Ari đã thay đổi nhiều. Buồn bã, ít nói, chàng hầu như lơ là với tất cả những gì không liên quan trực tiếp tới các cánh đồng, các cây ăn trái cùng vườn rau của chàng. Chiến tranh đã bùng nổ, nhưng chàng từ chối rời khỏi Yad El. Những lúc rảnh rỗi, chàng qua làng Abou Yesha sống với bạn cố tri là Taha, bây giờ là mouktar của làng.

Một buổi tối vào đầu năm 1940, khi trở về nhà, chàng thấy Avidan đang đợi. Sau bữa cơm, Ari, Avidan và Barak ngồi bàn chuyện riêng với nhau ở phòng khách. Avidan mở đầu:
– Chắc cháu cũng đoán được lý do cuộc thăm viếng của bác.
– Vâng.
– Như vậy, chúng ta chẳng phải bàn quanh làm gì vô ích. Trong Haganah, theo ý bác, có vài chục thanh niên cần phải nhập ngũ. Nhiều lần người Anh tiếp xúc với chúng tôi và hỏi thăm về cháu. Họ chỉ mong được bổ nhiệm cháu là sĩ quan…
– Cháu không hề thiết việc đó.
– Nghĩa là họ rất cần có cháu. Chúng tôi có thể xin cho cháu bổ nhiệm- Theo bác nghĩ, vào ban phản tình báo Ả rập- Nơi mà cháu có thể giúp nhiều cho Haganah nữa.
– Tử tế quá! Cháu đã e rằng họ sẽ xếp cháu vào ban tạp dịch đi đổ rác cùng với những thanh niên Palestine khác. Cháu rất hãnh diện được thiên hạ coi cháu như một tên Do thái hữu ích…
– Air, đừng có bắt tôi phải biến đề nghị của tôi thành lệnh.
– Lệnh? Thưa Tư lệnh, Tư lệnh chắc sẽ ngạc nhiên đấy.
Avidan giật mình. Là người hết sức trọng kỷ luật, ông không thể quan niệm một quân nhân tôn trọng hệ thống quân giai như Ari Ben Canaan lại có thể đột nhiên bất phục tùng như vậy. Barak can thiệp:
– Tôi hài lòng đã trình bày một cách thẳng thắn, Ari ấm ức hoài từ khi rời Tây Bá linh.
Avidan lắc đầu:
– Coi nào, Ari… Bác không muốn nhấn mạnh hơn…
– Việc quái gì tôi lại phải mặc quân phục Anh nhỉ? Để cho quí vị đó nhốt tôi vô tù sao? Bố muốn con cắt nghĩa ngay thẳng mọi sự phải không bố? Đây con xin nói: Từ năm năm rồi, chú Akiba đã có can đảm chỉ đích danh kẻ thù của chúng ta.
Barak gầm lên:
– Bố muốn con không được nhắc tên chú ấy trong cái nhà này!
– Con rất t
– iếc là không nhắc tới tên chú Akiba sớm hơn. Chính chỉ vì không muốn đương đầu công khai với bố nên con đã không gia nhập hàng ngũ Macchabée.
Avidan nói:
– Cháu chưa biết là Akiba cùng tất cả các Macchabée đã từ bỏ chiến đấu chống người Anh trong lúc này. Hiệu quả là sự khước từ của cháu…
Ari đứng dậy và đi ra phía cửa:
– Con sang chơi domino bên nhà Taha. Ngày nào quân quốc xã xâm lăng Palestine, xin mọi người báo cho con biết.

Cộng đồng Do thái dù có đóng góp hết sức mình vào nỗ lực chiến tranh của Anh, Luân đôn vẫn không vì thế mà chịu nổi thái độ thù nghịch. Một thái độ sẽ gây ra nhiều biến cố ghê khiếp đến nỗi làm một người Do thái ôn hoà cũng phải nổi nóng.

Trước hết là tấn thảm kịch tàu Strouma. Một chiếc tàu hơi chạy trên sông Danube, cổ lỗ, lọc xọc, mục nát, dài chưa tới hai mươi mét mà trên đó chồng chất tới tám trăm người Do thái tuyệt vọng tìm cách chạy khỏi Âu châu. Không biết do phép màu nào, chiếc tàu xác này, nước ngập mấp mé vì chở nặng, cũng đã tới được Istamboul. “Trung ương” phục quốc Do thái hầu như lạy người Anh xin ban cho các chiếu khán cần thiết. Nhưng người Anh không những từ chối không cho, còn gây áp lực mạnh với chính quyền Thổ để chính quyền này không cho phép tàu được tạm trú trong hải phận mình nữa. Sau cùng, các cảnh sát Thổ lên tàu. Chiếc Strouma bị kéo qua Bosphore rồi bỏ mặc cho trôi dạt ngoài Bắc hải, không nước uống, lương thực và không cả nhiên liệu nữa. Không chống nổi cơn mưa đầu tiên, chiếc tàu hơi chạy sông này đắm.

Chỉ có một người trên tàu sống sót.

Một thời gian sau, một thảm kịch thứ hai diễn ra ngay ngoài bờ biển Palestine. Hai chiếc tàu chở hàng kiệt quệ đã lết được tới Haifa với khoảng chừng hai ngàn ngừơi Do thái. Người Anh ra lệnh chuyển họ ngay lập tức sang chiếc Patria nhổ neo rồi bị đắm ngoài khơi hải cảng. Trong vụ này nữa, cũng có hàng trăm người mất tích.

Tất cả những điều đó đều được thực hiện tuân theo Bạch thư, để khỏi làm thiệt hại, dù chỉ rất nhẹ; tới người Ả rập!

Vào lúc đã làm chủ lục địa Âu châu, Wehrmacht sắp sửa tung ra một trận quyết định đánh vào tim của Đế quốc Anh- Nghĩa là vào kênh Suez, Ai cập và Palestine- Vị mufti ấy, sau cuộc nổi dậy thất bại ở Irak, đã sang Bá linh. Được Hitler tiếp đón nồng nhiệt vì lãnh tụ Đức thấy đó là một đồng minh hữu ích, mufti được sử dụng đài phát thanh Đức để lên tiếng hô hào với giọng điệu cũ rích:

“Hỡi dân Ả rập, hãy đứng dậy, hãy trả thù những kẻ đã hành hạ đồng bào… Tôi, mufti Palestine, tuyên bố thánh chiến, nổi dậy chống lại áp bức gong cùm Anh cùng sự hỗn láo đã làm ô uế các nơi thờ phụng của chúng ta. Giết chết được một tên Do thái, là làm hài lòng đấng Allah, là cứu vãn danh dự của đồng bào. Cầu cho bọn Do thái tiêu diệt đến tên cuối cùng!”

Trong thời gian này, lộ quân thứ VIII của Anh bị Afrika Korps of Rommel đẩy lui, đang chuẩn bị giao tranh trận chót để giữ đồng bằng sông Nil. Đằng sau lưng đạo quân này, ở Alexandrie, dân Ả rập đang chuẩn bị cờ xí để đón tiếp “các người giải phóng”một cách xứng đáng. Xa hơn về phía bắc, ở Syrie, quân Đức, dưới sự che chở của chính quyền Pháp phe Vichy, đã dự trữ đủ vũ khí để chuẩn bị xông vào Palestine. Trong toàn thể Trung Đông, Anh quốc chỉ còn trông cậy ở một đồng minh duy nhất: Các lực lượng phục quốc Do thái.

Tình hình kẹt đến nỗi một ngày nọ ngừoi Anh cầu tới “Trung ương” và yêu cầu Do thái thành lập các đơn vị du kích. Các đơn vị này, trong trường hợp lộ quân VIII rút lui, sẽ tạo thành quân chặn hậu và tấn công quấy nhiễu các đạo quân đồn trú Đức. Do đó phát sinh Palmach, lực lượng sau này trở thành lực lượng xung kích chính của Haganah.

Ari Ben Canaan ngồi xuống bàn dùng bữa cơm, và điềm tĩnh nói:
– Con vừa tình nguyện đầu quân vào quân lực Anh.
Ngày hôm sau, chàng tới trình diện tại kibboutz Beth Alonime, Nhà Cây Sồi, nơi mà tất cả thanh niên Palestine khắp xứ đổ về để thành lập các đơn vị Palmach.

15
Ari, được bổ nhiệm chức trung uý, được trao phó phụ trách các cuộc hành quân du kích. Đa số thanh niên thanh nữ dưới quyền chàng chưa đạt tới tuổi trưởng thành. Còn về các sĩ quan, đó là các tay “cựu trào” mà tuổi trung bình vào khoảng trên dưới hai mươi lăm. Đó là một đoàn quân rất đặc biệt, không đồng phục không phù hiệu, con trai cũng như con gái đều được huấn luyện y như nhau, một sự huấn luyện căn cứ trên một ý nghĩa sâu xa về định mệnh đã ghi trong thánh kinh về dân tộc họ.

Trong hàng quân, có hai người đã chứng tỏ có nhiều đức tính nên được bổ nhiệm làm các trưởng đoàn, đặt dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Ari . Người thứ nhất, Zev Gilboa, là một nông dân miền Galilée, thấp, khoẻ, nặng nề, có một bộ ria vĩ đại đen thẫm. Người thứ hai, David Ben Ami, một sinh viên ở Jérusalem, nhỏ bé và nóng nẩy, có một khuôn mặt linh hoạt, các nét nhiệt thành và nhậy cảm. Cộng chung cả hai người, chưa được bốn mươi tuổi.

Một ngày kia, trại được tướng Haven Hurst đến thăm. Trong khi đi thanh tra, viên tướng Anh đã có thể nhận thấy sự hiện diện của ông không hề gây ra một niềm phấn khởi nào. Không hề bối rối vì thế, ông cho gọi Ari đến bộ chỉ huy trại.
– Trung uý Ben Canaan, trung uý hãy ngồi xuống. Trước hết, tôi muốn khen ngợi anh: anh đã làm được công việc rất tuyệt hảo với các lực lượng của Palmach.
– Xin cám ơn đại tướng.
– Tôi đã nghiên cứu hồ sơ của anh, nói cho đúng hơn, các chặng trong đời sống của anh. Một đời sống rất phong phú.
– Những trường hợp bất hạnh cùng sự thù nghịch bao quanh chúng tôi đã bắt tôi phải sống một cuộc đời như thế. Thực ra thì tôi thích yên tĩnh hơn xáo trộn: tôi thích được sống như nông dân.
Haven Hurst không để ý đến lời chàng
– Tôi tới thăm trại này chính ra để có dịp nói chuyện với anh. Tôi muốn anh tình nguyện nhận một nhiệm vụ đặc biệt. Tôi biết là anh đã chỉ nhập ngũ với điều kiện là để huấn luyện cho Palmach thôi, nhưng chúng tôi cho rằng vụ này khá khẩn cấp để biện minh cho một sự sửa đổi thái độ cần thiết.
– Thưa đại tướng, tôi là quân nhân trong quân lực Anh quốc. Vậy tôi sẽ nhận tất cả các nhiệm vụ mà thượng cấp sẽ trao phó cho tôi.
– Tốt lắm. Đây, tóm tắt vấn đề như sau. Kể từ một thời gian gần đây, quân Đức tích trữ quân cụ ở Syrie. Chúng tôi e rằng họ sẽ tấn công Palestine trong mùa xuân này. Vậy mà vì không có khai chiến với chính phủ Vichy, chính chúng tôi không thể nào tung ra một cuộc tấn công phòng ngừa chống lại Syrie được. Ngược lại chúng tôi có đủ các lực lượng Pháp Tự do cần thiết nhưng với điều kiện là chúng tôi có thể chuẩn bị cho họ can thiệp bằng cách cung cấp những tin tức thật chắc chắn và đầy đủ. Chính vì cuộc hành quân này mà chúng tôi đã nghĩ tới anh: một mặt vì anh biết rõ Syrie và Liban, sự hiểu biết do từ thời kỳ anh còn ở Ha Mishmar, một mặt khác bởi vì anh nói thông thạo Ả rập. Chúng tôi muốn anh sẽ thu thập các thanh niên đã từng ở Ha Mishmar với anh rồi trở lại miền đó, dùng kibboutz như căn cứ xuất phát. Một khi cuộc tấn công của chúng tôi đã được phát động, anh sẽ có các nhiệm vụ khác. Kể từ bây giờ, tôi có thể hứa thăng cấp đại uý cho anh.
– Tôi thấy có một trở ngại, thưa đại tướng.
– Trở ngại nào?
– Đa số các bạn đồng đội của tôi ở Ha Mishmar đã bị cảnh sát của đại tướng bắt nhốt.
Haven Hurst đỏ bừng mặt.
– Tôi sẽ ra lệnh tha họ ngay lập tức.
– Xin cám ơn đại tướng. Một điều khác: ở đây tôi có hai quân nhân hữu hạng. Tôi mong được đưa họ tới Ha Mishmar và xin cho họ được chuyển sang quân lực Anh.
– Chấp nhận hoàn toàn.
Ari đứng dậy, chào và tiến ra cửa. Trên ngưỡng cửa, chàng quay lại:
– Nếu đại tướng cho phép tôi được góp ý kiến, thì bây giờ đúng là lúc tiến đánh Syrie. Cuộc hành quân này sẽ mang lại cho Lộ quân VIII khoảng thời gian cần thiết để rút lui sang Ấn độ.
Haven Hurst nhìn thẳng vào Ari bằng ánh mắt lạnh như thép.
– Ari Ben Canaan, không cần phải nói anh cũng biết rằng một ngày kia chúng ta sẽ gặp lại nhau, nhưng mỗi người một bên chiến tuyến.
– Thưa đại tướng, chúng ta đang là như thế rồi.
Đi cùng Zev Gilboa và David Ben Ami, Ari lên đường đi Ha Mishmar, trái đồi cao đối với chàng đã ghi bao nhiêu là kỷ niệm thê thảm. Trong một thời gian ngắn, chàng đã đứng đầu năm mươi chiến binh lão luyện của Haganah, trong đó có nhiều kẻ đã từng phục vụ trong quân lực Anh ở các xứ xa xôi.

Các toán tuần thám Ari tung ra trong lãnh thổ Syrie đã liều lĩnh tiến đến tận Damas. Vì chiến dịch tấn công cần phải bất ngờ hoàn toàn, chàng cần phải hành động hết sức thận trọng để địch khỏi nghi ngờ. Ari sủ dụng phương pháp vừa giản dị vừa hiệu lực. Đa số quân của chàng nói thạo tiếng Ả rập cùng am tường địa thế, chàng cho họ ăn mặc như dân bản xứ để gửi họ lên đường công khai giữa ban ngày: Họ chỉ còn việc mở mắt trông và lắng tai nghe. Nhưng dẫu sao phương pháp này cũng có vẻ không đủ để khám phá đến nơi đến chốn những đô thị lớn như Damas và Beyrouth. Đó là một công việc hết sức tế nhị cần đến một hành động cá nhân: là một người có thể đến vào bất cứ nơi đâu mà không bị nghi ngờ. Ari tham khảo Haganah và thượng cấp ở đây đã tìm ra được một con chim hiếm, đó là một chàng trai mười bảy tuổi, tên Joab Yarkoni.

Đó là một người Do thái Marốc, sinh quán tại Casablanca, vóc người nhỏ bé, can đảm, táo bạo, có bộ óc khôi hài “cao độ” trong bất cứ hoàn cảnh nào. Với da mặt xạm nắng và đôi mắt đen lớn, hắn có thể nguỵ trang bất cứ người Ả rập nào. Joab nói:
– Đi coi xem có những gì trong các đô thị đó hả? Không có gì dễ hơn. Tôi sẽ mang về tất cả những tin tức gì anh muốn.
Joab Yarkoni đã giữ lời. Đi từ biên giới tới Damas, từ Damas tới Beyrouth, từ Beyrouth đến Tyr, chàng trở về Ha Mishmar sau ba tuần lễ. Những tin tức hắn thâu thập được cho phép mọi ngừơi biết rõ quân lực Vichy đến nỗi chỉ sai chừng nửa đại đội là cùng.

Một cách kín đáo, các lực lượng Pháp Tự do tiến vào Galilée rồi dàn ra dọc biên thuỳ Syrie.

Một nhóm người của Palmach- tổng cộng chừng năm mươi- bị sát nhập vào một đoàn đặc công được Úc tuyển lựa kỹ càng, gồm toàn các tay chuyên viên về mìn và chất nổ. Lực lượng này, chia làm ba nhóm xung kích, được trao phó nhiệm vụ tiến vào lãnh thổ Syrie và Liban trứơc khi có trận đánh để chiếm cứ một số trục giao thông cùng các cây cầu chiến lược, tử thủ tại đó cho tới khi quân lực đồng minh tiến tới nơi.

Nhiệm vụ nguy hiểm nhất được trao phó cho toán của Ari. Chàng phải dẫn ba mươi người của chàng đi dọc theo duyên hải Liban, tiến đến gần một đạo quân của chính quyền Vichy và ngăn cản đạo quân này tổ chức phòng thủ chừng sáu cây cầu trong vùng núi, một sự phòng thủ có thể làm quân Pháp Tự do phải ngừng tiến quân. Ari mang theo Joab, Zev và David. Ngoài ba trung sĩ này, chàng còn có mười sáu người Do thái và mười người Úc nữa.

Khởi hành hai mươi bốn tiếng trước ngày N, họ đi ngược bờ biển rất nhanh nhờ am tường địa thế, liên tiếp vượt qua sáu cây cầu, chiếm một hẻm núi gần đạo quân của Vichy đồn trú ở Fort Henried. Rồi sau khi chôn mìn trên đường, chọn vị trí đặt các khẩu liên thanh, họ chờ quân đồng minh tiến đến.

Nhưng, như thường thấy xảy ra trong một cuộc hành quân loại này, đã có một kẻ nào đó đã vi phạm lỗi lầm. Cánh quân phía đông, đã xuất phát từ Transjordanie mười hai tiếng đồng hồ quá sớm, tiến thẳng về Damas, làm mất luôn yếu tố bất ngờ.

Đối với Ari, sự kiện đó có nghĩa là chàng bắt buộc phải tử thủ hẻm núi đó không những trong ba hay bốn tiếng cần thiết để đại quân đồng minh tiến đến, mà còn phải giữ thêm mười hai tiếng nữa.

Viên chỉ huy quân sự Vichy ở Fort Henried không để mất thì giờ. Vừa đựoc báo động, ông đã tập trung hai tiểu đoàn có thiết giáp và pháo binh yểm trợ, khởi hành dọc duyên hải để đi phá các cầu trong miền núi. Khám phá ra tiền quân địch, Ari hiểu là đã có gì trục trặc xảy ra. Ngay lập tức, chàng gủi Zev và David về biên thuỳ Palestine để cầu viện.

Tiến vào hẻm núi không nghi ngờ gì, đạo quân của Vichy bị thiệt hại khá nặngvì các liên thanh bắn từ cạnh sườn và các trái mìn nổ tung dưới chân. Họ lùi lại, tập trung lại rồi cho pháo binh bắn như mưa.

Sáu tiếng ghê gớm trôi qua trứơc khi một tiểu đoàn Pháp Tự do tới tăng viện kịp. Hẻm núi vẫn giữ được. Tất cả các cuộc xung phong đều đã bị đẩy lui, và trên đèo nằm rải rác hơn bốn trăm xác quân sĩ của quân lực chính phủ Vichy.

Trong đoàn đặc công của Ari, chỉ còn có năm người sống sót. Chính Ari cũng hầu như hấp hối. Lưng chàng đầy mảnh đạn, hai viên đạn nữa nằm trong người, một chân và mũi bị gãy. Đối với chàng, chiến tranh chấm dứt ở đây.

Một xe tải thương đưa chàng về Palestine. Trong khi quân lực Pháp Tự do hoàn tất công cuộc chiếm cứ Syrie, Ari phải chịu cực hình gắp từng mảnh đạn ra, rồi sau đó là một thời kỳ dưỡng bệnh rất dài. Để tuyên dương công trạng của chàng, người Anh thăng chức thiếu tá và ban một huân chương cho chàng để tưởng thưởng chiến công ở hẻm núi.

Ari Ben Canaan đã tỏ ra xứng đáng với chính nghĩa của Đồng minh, như tất cả hàng ngàn đoàn viên phục quốc Do thái khác.

Người ta thấy các Do thái Palestine hiện diện trong các toán xung kích chuẩn bị chiếm Tobrouk và Bardia. Sau này, một trong những tiểu đoàn của Do thái này đã tham dự vào cuộc tử thủ Tobrouk oai hùng. Họ chiến đấu ở Ý, ở Hi lạp, đảo Crète, Hoà lan.

Hàng trăm người trong họ thuộc các phi hành đoàn oai hùng của không lực Hoàng gia Anh. Trong một cuộc đột kích táo bạo, một đơn vị quyết tử của Do thái đã phá huỷ xưởng lọc dầu Tripoli, và sau đó không một người nào sống sót trở về. Có những người Do thái Đức, mặc quân phục Đức, làm việc ở Tổng hành dinh của Rommel. Nhiều quân nhảy dù Do thái được thả xuống các nước Trung Âu để sưu tầm tin tức và tổ chức phá hoại. Tại những nơi đây nữa, nhiều kẻ đã ra đi không về. Một thiếu nữ tên là Hanna Senesh, được thả xuống Hung Gia Lợi, bị cơ quan Gestapo bắt, đã trở thành một bậc anh thư của kháng chiến bởi vì mặc dù bị tra tấn tàn bạo vẫn không khai (những nơi nàng tiếp xúc).

Các đoàn viên phục quốc Do thái lập không biết bao nhiêu chiến công oai hùng, nhưng chính quyền Anh không hề muốn họ sau này sẽ dựa vào đó để đưa ra những nguyện vọng yêu nước. Do đó hậu quả là Luân đôn cố tránh không nói gì đến các nỗ lực quân sự của Do thái cả. Đến nỗi những nỗ lực này trở thành một trong những bí mật được giữ kín nhất trong chiến tranh.

Điều chờ đợi xảy ra đã xảy ra: chiến tranh chấm dứt, kẻ thù chung bị đánh bại, Anh quốc từ chối thu hồi lại Bạch thư. Mặc dù cả ngàn vụ phản bội của Ả rập và đã không giơ đến ngọn ngón tay lên để góp phần vào chiến thắng, mặc dù các đóng góp anh hùng của các đoàn viên phục quốc Do thái, mặc dù sáu triệu người Do thái đã bị Quốc xã giết chết, người Anh vẫn giữ nguyên lập trường- không cho người Do thái về Palestine.

Haganah, với một lực lượng bây giờ gồm nhiều chiến binh kinh nghiệm, đã bắt đầu bất mãn, xôn xao. Nhưng dù thế nào chính các Macchabée, là những kẻ đầu tiên tuyên chiến lại với ngừơi Anh. Một loạt tấn công bằng chất nổ làm rung động cả xứ. Trong khi người Anh rút quân, đóng vững trong các đồn Taggart, các Macchabée lần lượt cho nổ hết các cơ sở quân sự này đến cơ sở quân sự khác của người Anh.

Việc trả đũa thật tàn bạo. Tỏ ra một nghị lực không ai có thể ngờ được là có, tướng Haven Hurst cho bắt giam và đày sang Soudan cả trăm đoàn viên Macchabée. Tuy vậy, cơ quan an ninh không sao khám phá ra các nơi ẩn trú của các cán bộ của Akiba. Sau đó, Haven Hurst cho đánh đòn bằng roi da tất cả những đoàn viên nào bị bắt về sau này, tại nơi công cộng. Đoàn Macchabée đáp lễ bằng cách bắt cóc quân sĩ Anh để rồi cũng đem ra đánh bằng roi da ở nơi công cộng.

Người Anh cho treo cổ các đoàn viên Macchabée và đoàn này cũng treo cổ những quân lính Anh bắt được. Rất nhiều viên đạn Do thái đã bắn hạ sát các sĩ quan Anh đã tuyên bố công khai chống lại phục quốc Do thái. Về phía người Ả rập, họ cũng thực hiện nhiều vụ ám sát ghê tởm để đáp lễ các hành động của Do thái. Từ bắc tới nam, Palestine sống run sợ dưới chế độ khủng bố.

Trong chuyến ngao du Âu châu, mufti đã có cái dại là tuyên bố mình là lãnh đạo tinh thần của các dân Nam tư theo Hồi giáo đang chiến đấu trong hàng ngũ quân lực Đức. Khi chiến tranh chấm dứt, chính phủ Belgrade ghi tên ông vào danh sách những tội nhân chiến tranh. Mufti chạy trốn sang Pháp và bị chính quyền nơi này bắt giữ. Tuy vậy người Anh vẫn muốn duy trì ông để sau này có thể cần tới như một tay xách động ở Trung Đông. Bởi thế họ giúp cho mufti trốn thoát được sang Ai cập, nơi đây ông được tiếp đón như một anh hùng của Hồi giáo. Trong thời gian này, ở Palestine, cháu ông là Jammal đã nắm lấy guồng máy chỉ huy cộng đồng Ả rập.

Dầu thế nào, do sự suy yếu của Anh quốc, phần đất này của thế giới không còn, chỉ ở dưới quyền kiếm soát của Anh nữa mà thôi. Mỹ đã đứng ra chuẩn bị thay thế, và dưới áp lực của Hoa Thịnh Đốn, Luân đôn phải chấp nhận thành lập một uỷ ban Mỹ Anh đặc trách việc cứu xét vấn đề Palestine. Uỷ ban này, sau khi điều nghiên tại chỗ và đã đi thăm tất cả các trại tập trung di dân Do thái ở Âu châu đã đi đến một kết luận khả dĩ chấp nhận được: “phải cho phép nhập nội ngay một trăm ngàn người Do thái.”

Người Anh phản đối. Họ tuyên bố rằng một biện pháp như vậy chỉ có thể áp dụng được nếu người Do thái phải giải tán vĩnh viễn luôn cả Haganah lẫn đoàn Macchabée. Ngoài điều kiện vô lý này, ngừơi Anh còn đưa thêm cả chục điều kiện nữa, điều nào cũng kỳ cục, được tưởng tượng ra cốt để khỏi phải chấp nhận đề nghị của uỷ ban.

Bây giờ, chính “Trung ương” cũng không nhịn được nữa. Chính cơ quan đầu não này đã ra lệnh cho Haganah cùng Palmach thực hiện cả loạt đột kích vào các cơ sở vị trí của Anh. Áp lực căng thẳng mỗi lúc một tăng. Mang hàng mấy chục ngàn quân sĩ ưu tú tới, người Anh thiết lập một chế độ cảnh sát trị không thua kém gì các chế độ chuyên chế đã có từ xưa đến nay. Trong một cuộc bố ráp khổng lồ, họ bắt hàng mấy trăm nhân vật của phục quốc Do thái, đem an trí ở ngục Latran. Để trả thù vụ bắt giam khổng lồ này, Haganah cho nổ tung cây cầu dọc theo biên thuỳ Palestine.

Sau cùng, trong một bài diễn văn chống Do thái rõ ràng, Ngoại trưởng của Anh hoàng tuyên bố đình chỉ toàn diện việc nhập nội Palestine của người Do thái.

Câu trả lời của các Macchabée làm vỡ tai nhiều người. Vài hôm sau đó, khoảng một chục người ăn mặc như người Ả rập, trao rất nhiều thùng sữa cho “Khách sạn Đức vua David”, một dinh thự lớn cánh trái được dùng làm Bộ Tư lệnh quân lực Anh. Các lính gác, không thể ngờ được đó là các thùng thuốc nổ, đã để cho họ đi qua. Các Macchabée mang các thùng xuống các hầm phía dưới cánh trái toà nhà, điều chỉnh ngòi nổ theo thời hiệu đã định rồi ra về. Rồi một người trong bọn họ điện thoại cho Bộ Tư lệnh, khuyến cáo người Anh nên di tản cấp tốc ra khỏi toà nhà đó. Dĩ nhiên là lời khuyến cáo này không được coi là đứng đắn. Hiển nhiên đây là một trò đùa làm cho quân lực Anh bị lố bịch. Đoàn Macchabée đâu dám hỗn láo đến độ cho làm nổ tung Bộ Tư lệnh Anh…
Mười lăm phút sau, một tiếng nổ lớn làm rung động cả đô thị. Khi những tiếng dội vào đồi núi chung quanh đã yếu bớt, mọi người nghe thấy một tiếng nổ rền. Đó là cả cánh trái của “Đức vua David” đã sụp đổ.
__________

Chú thích:
(1) Lực lượng Pháp Tự do: hợp bởi các đơn vị cùng các quân sĩ Pháp không nhận quyền bính của chính phủ Vichy. Lực lượng này cũng như phong trào kháng chiến tại nội địa Pháp, đều đặt dưới quyền lãnh đạo của De Gaulle.

2-16

Sau khi được xét lại, tân trang, tiếp tế đủ thực phẩm nhiên liệu, tầu Exodus đã sẵn sàng nhổ neo đi Palestine.
Ari đã ấn định ngày khởi hành và hôm sau lễ Chanoukah, mà cộng đồng Do-thái ở Chypre đã mở ra để khoản đãi các trẻ em trên sân thượng “Khách sạn Dôme”.
Các quan khách và thủy thủ đoàn đã được mời ngồi vào các bàn danh dự. Ba trăm trẻ em, mặc quần áo mới, vui vẻ ào vào các đống quà do lòng hảo tâm của dân đảo Chypre và của nhiều quân sĩ Anh tặng đã xếp đống sẵn từ nhiều ngày. Việc phân phát quà thực hiện rất nhanh: mỗi trẻ chỉ nhận một món quà thôi, phần còn lại dành cho các người còn bị giam giữ ở trại Caraolos. Sau đó là bữa ăn với các dẫy bàn dài đầy thực phẩm ngon lành. Đó quả là một giờ thần tiên của các đứa bé trai gái đã cương quyết tuyệt thực như người lớn và bây giờ đã lại có thể được làm trẻ con.
Lo lắng đưa mắt tìm bà bạn Kitty trong đám thực khách, Karen sau cùng sung sướng đã tìm ra nàng đang đứng tựa vào bao lơn cùng với Mark Parker.
– Cô Kitty, lại đây cô. Chỗ này còn chỗ cho cô.
Kitty lắc đầu.
– Không được đâu em. Hôm nay là ngày vui của các em chứ. Chúng tôi chỉ nhìn các em cũng đủ thích rồi.
Trên bàn danh dự, David Ben Ami đứng dậy và xin cử tọa im lặng. Chàng bắt đầu nói:
– Chiều hôm nay chúng ta cử hành lễ Chanoukoh ngày đầu để tưởng niệm Judas Macchabée cùng sáu em và một nhóm người can đảm đã từ vùng đồi Judée tiến xuống để chiến đấu chống lại kẻ áp bức Hy-lạp. Đó là một đoàn quân thiếu trang bị, ít ỏi đến mức khôi hài trước đạo quân Hy-lạp lúc đó đang thống trị thế giới. Nhưng đó là một đoàn quân có một niềm tin sâu xa mãnh liệt ở Thượng đế cùng sự trợ giúp của Ngài. Họ đã tấn công Jérusalem, chiếm đô thị này, tiến vào đền thờ lật đổ tượng Zeus và trả lại đền cho Đấng Vĩnh cửu duy nhất và toàn năng. Chính Đấng Vĩnh cửu này đã đang giúp đỡ chúng ta chống lại người Anh.
Chàng phải đợi các tràng vỗ tay tán thưởng chấm dứt mới tiếp tục thuật tiếp câu chuyện phục sinh của Do-thái. Kitty Fremont mê say lắng nghe. Nàng nhìn Karen, nàng nhìn Dov Landau. Nàng quay lại nhìn Mark – để nhận ra là tướng Sutherland đang đứng gần nàng. Mắt nàng hướng về phía đầu bàn danh dự – nhìn Zev Zilboa, người nông dân xứ Galilée, nhìn Joab Yarkoni, người xứ Ma-rốc bé nhỏ, David Ben Ami, người trí thức thành Jérusalem. Sau cùng mắt nàng dừng lại ở Ari Ben Canaan. Người thanh niên Palestine to lớn này, bây giờ mới có dịp để buông xả, có vẻ như muốn gục xuống vì mệt. Lần đầu tiên từ nhiều tuần lễ…
David lớn tiến đọc:
– … Hãy ghi nhớ điều này. Kẻ nào bảo vệ Israël không được lơ là, không được thiếp ngủ…
Kitty cảm thấy rùng mình lạnh lẽo từ đầu đến chân. Nàng không sao rời mắt khỏi khuôn mặt hốc hác của Ari Ben Canaan…
“Kẻ nào bảo vệ Israël không được lơ là, không được thiếp ngủ…”

Các động cơ tầu Exodus bắt đầu lịch kịch nổ máy chạy. Tầu rời ke, chậm chạp quay mũi vượt qua lối ra hải cảng, hướng về Palestine.
Rạng đông ngày thứ hai, tất cả, không ngoại trừ một ai, đều chờ đợi xuất hiện bờ biển đã ao ước biết bao lâu.
– Nhìn kia!… Đất Israël!
Sau đó là một tiếng kêu đồng loạt tiếng hét, vui mừng, tiếng khóc nức nở, tiếng cười và nước mắt.

Ở Haïfa, tầu Exodus cập bến là cả một biến cố. Cần phải thiết đãi những đứa trẻ đã từng làm xiêu cả Đế quốc Anh. Exodus tiến vào hải cảng giữa những tiếng còi hụ liên hồi, tiếng còi huýt đến như điên cuồng. Trên các ke, hai mươi lăm ngàn người hoan hô hết mình sự can trường của chiếc tầu nhỏ bé cùng các hành khách trên tầu. Người ta hầu như không nghe thấy bài ca chính thức của phong trào phục quốc Hatikvah (Hy vọng), do ban nhạc hòa tấu của Palestine cử hành.
Tầu Exodus đã hoàn tất chuyến viễn hành!

  1. Không có bình luận
  1. No trackbacks yet.

Bình luận về bài viết này