5. Hàng Giáo sĩ đi Nam có lợi hay có hại? & 6. Tình hình các địa phận sau 1954- Bắc 54 Là Thế Nào ?

Điều gì đã thúc đẩy các Giám Mục, linh mục miền Bắc, cả các tu sĩ nam nữ đi Nam?

Nói chung, đó là sợ hãi Cộng sản đến! Cộng sản đối với tôn giáo đồng nghĩa tiêu diệt tôn giáo.

Giáo dân còn ùn ùn kéo đi. Phương chi hàng giáo sĩ, tu sĩ vừa hiểu rõ hơn, vì thấy mình bị nhắm trước hết. Và việc xảy ra ở Tây Ban Nha vào năm 1936, khi Cộng sản lên nắm quyền đã tàn sát không biết bao nhiêu linh mục, tu sĩ nam nữ. Ông Francô mà sau này người ta coi là phát xít, là độc tài, ông đã đứng lên chống Cộng. Tây Ban Nha đã trở nên nồi da nấu thịt: nội chiến giữa hai phe Quốc Cộng và Quốc Gia. Quốc Gia nhờ sức mạnh nước Đức mà Hitler lúc này đã lên nắm quyền; ở ý Mussolini mạnh sức với đảng phát xít, nên đã thắng phe Cộng sản. Phe này có Liên Xô giúp và được Quốc tế Cộng sản hỗ trợ. Nhờ tuyên truyền khéo, một mặt họ lật ngược ván cờ về mặt chính nghĩa. Francô và phe ông bị coi là độc tài phát xít, với tất cả những cái xấu xa tàn bạo mà Cộng sản chụp lên họ. Phe Cộng sản được cái danh hiệu mĩ miều là dân chủ. Dân chủ của họ còn tàn bạo hơn là phát xít. Vì thế, những cảnh tàn sát, nhất là đối với Công giáo, làm khắp nơi sợ hãi.

Đó là cái lý do chính mà các giáo phẩm thuộc dòng Đôminicô và Đôminicô Tây Ban Nha đứng lên chống Cộng. Những cuộc hành quân đánh Việt Minh được coi như thánh chiến. Và rồi khi hiệp định Geneve được ký kết, tất cả các giáo phẩm thuộc Đôminicô cũng như Hội Truyền Giáo Paris trước đây, nay đã thuộc hàng giáo sĩ Việt Nam, đều có nhiều linh mục, tu sĩ nam nữ “bỏ chạy”.

Cái lý do thúc đẩy người Công giáo và các linh mục đứng lên lập bốt, rào làng là để chống lại Cộng sản. Nay những căn cứ, đồn bốt bị sụp đổ hết, vì bị Việt Minh đã phá hoặc nay không còn lý do tồn tại vì hiệp định Geneve. Trong hiệp định Geneve đặt ra vĩ tuyến 16 phân đôi Việt Nam thành hai miền Nam – Bắc. Bắc – Cộng sản, Nam – Quốc gia và ai nấy được tự do lựa chọn mỗi miền – và người dân ở mỗi miền được đảm bảo là không bị phân biệt đã tham gia phe nọ phe kia, để khỏi bị trả thù. Song những người ý thức thời cuộc, chẳng mấy ai tin vào điều khoản bảo đảm đó, nhất là đối với Cộng sản đầy thủ đoạn mưu lược, ai mà tin được. Nên phương thế hay nhất đối với những người này là cao chạy xa bay. Một số đi Nam, đi Nam để gây thế lực, để có cơ hội “Bắc Tiến”, cũng như miền Bắc khéo léo quỉ quyệt hơn, tìm cách “thống nhất” hai miền, và theo hiệp định Geneve, sẽ có cuộc Tổng tuyển cử hai năm sau đó để thống nhất hai miền, người đi Nam lại trở về Bắc. Các linh mục đi Nam ít nhiều bị thúc đẩy bởi những lý do đã nói.

Giáo phận Hải Phòng đứng đầu trong việc di cư. Đức Cha Trương Cao Đại đi đầu tiên, kéo các linh mục, nam nữ tu sĩ. Chỉ còn một vài linh mục già và một linh mục trung tuổi, thuộc dòng Đôminicô, linh mục Phước. Vị này sẽ là một trong các nòng cốt của Hội Liên Lạc Công Giáo.

Ðức GM Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi

Địa phận Bùi Chu, Đức Cha Phạm Ngọc Chi cũng rút, trao lại địa phận cho cha thư ký của ngài là linh mục Giuse Phạm Năng Tĩnh làm cha chính, sau này sẽ lên làm Giám Mục, có cha Phạm Thu, trẻ tuổi làm thư ký. Một số cha can đảm ở lại: cha già Huy làm cha chính và nhất là Lương Huy Hân, sau này nổi tiếng chống Cộng và bị họ bắt rồi chết rũ tù. Còn lại mấy cha già, trong đó cha Đường, cha Bảo sẽ tham gia hội đoàn nhà nước, nhất là cha già Học gần 90 tuổi, vẫn hãnh diện là bạn của Bác Hồ. Nguyện theo Bác đến cùng, để chết sẽ được nhà nước chôn cất. Cha được đặt ở Khoái Đồng – Nam Định, đứng đầu nhóm “Công giáo yêu nước” ở đó, chết và được mai táng ở cạnh nhà thờ Khoái Đồng.

Địa phận Phát Diệm – khu tự trị, dĩ nhiên là phải lên đường trước tiên. Đức Cha Lê Hữu Từ, cha Hoàng Quỳnh tổng bộ tự vệ, rồi các cha lần lượt đi hết. Còn một cha trẻ, cha Hậu, em cha Tùng, quê họ Cổ Liêu xứ Hoàng Nguyên, Hà Nội. Cha này cứng cát, luôn “chống đối” chính quyền. Cha bị bắt và chết rũ tù từ năm 1955. Địa phận được trao cho cha Liêm, làm cha chính, có cha Bùi Chu Tạo làm chính xứ Phát Diệm. Cha Bùi Chu Tạo sẽ làm Giám Mục và sống đến năm 2001. Tuy nhiên, Phát Diệm có một số cha đứng tuổi có năng lực ở lại. Hai cha, Trinh và Khuyến sẽ làm Giám Mục phó, và đã qua đời trước Đức Cha chính (người ta bảo Đức Cha chính “sát phó”. Cha Trinh làm Giám đốc Chủng Viện lúc đó, cha này tham gia mặt trận mạnh mẽ lắm, tuy vẫn ở bên Đức Cha Tạo. Cha Quản Hạt đứng đầu nhóm “yêu nước”. Cha Chu Trinh bị bắt vì chống Cộng, sau này lại đứng đầu nhóm “yêu nước” của địa phận. Đặc biệt nhất là cha Nguyễn Thế Vịnh, một trong những “cột trụ” của Liên Lạc Công Giáo. Trước đây, cha có làm thư ký Toà Giám Mục. Ngài là người hung hăng nhất trong các linh mục tham gia Liên Lạc Công Giáo, đến nỗi Cha Nguyễn Tất Tiên, đồng nghiệp, thuộc địa phận Hà Nội, phải tuyên bố: “Ông này phải sa địa ngục” vì những luận điệu hung hăng chống Hội Thánh. Cha này và các cha loại đó, tự phân ly khỏi Giám Mục Địa phận, tuy có giữ một xứ, song không còn sinh hoạt thông công cấm phòng chung địa phận. Cha Nguyễn Thế Vịnh sau chiếm cứ Ninh Bình, đến khi nhà thờ Ninh Bình bị bom tàn phá, cha lên Hà Nội, chết trên đó, nhưng được về mai táng ở Phát Diệm, và Đức Cha Tạo, một vị rất kỷ luật, không hiểu sao lại làm lễ an táng cho cha như các cha khác trong địa phận, mặc dù cha này không trở về địa phận khi còn sống. Chắc là Đức Cha bị ép. Rồi đến các ngày giỗ sau đó, Đức Cha cũng phải để cho tổ chức một vài nghi lễ tôn giáo nào đó.

Địa phận Bắc Ninh, các cha đi gần hết, còn mình Đức Cha Hoàng Văn Đoàn. Khi Liên Lạc Công Giáo được thành lập năm 1956, Đức Cha không tỏ ra dứt khoát, nên bị dư luận cho rằng Đức Cha ủng hộ phong trào đó, Đức Cha đã phải thanh minh, cả bằng truyền đơn. Rồi cuối cùng, ngài xuất ngoại bằng cách đi chữa bệnh ở Hồng Kông. Có thể có sự chấp thuận của Đức Khâm Sứ Dooley. Rồi qua Hồng Kông, ngài vào miền Nam Việt Nam. Thêm một địa phận trống toà, các xứ trống cha xứ.

Đức cha Đa Minh Hoàng Văn Đoàn

Địa phận Lạng Sơn, Đức Cha Hedde và các cha Đôminicô Pháp (Lyon), không hoảng hốt như các cha Đôminicô Tây Ban Nha. Các ngài và các linh mục Việt Nam còn ở lại. Sau đó, các cha Pháp cũng như Đức Cha bị trục xuất. Rồi một số linh mục Việt Nam vào Nam, trong đó có cha Ngữ, sau này làm Giám Mục Long Xuyên. Còn lại cha Phạm Văn Dụ và vài cha khác. Cha Dụ được Toà Thánh gọi làm Giám Mục, song không thể nào tấn phong cho ngài.

Địa phận Hà Nội. Thái độ khác các nơi khác. Đặt vấn đề di cư miền Nam rất hạn chế. Đức Khâm Sứ Dooley ở Hà Nội. Các cha thừa sai Pháp ở lại. Các cha Đôminicô Pháp cũng ở lại. Dòng Chúa Cứu Thế vẫn hoạt động. Các sơ Thánh Phaolô có kế hoạch di tản, Dòng Mến Thánh Giá thì tán loạn.

Hồng Y Giuse Maria Trịnh Như Khuê - Hà Nội

Riêng Tiểu Chủng Viện Piô XII, Đức Cha Khuê cho toàn bộ di cư, Cha Bề Trên Nguyễn Huy Mai, các Giáo sư và toàn thể Chủng sinh. Phần các cha trong Địa phận, chỉ những cha nào có lý do không thể ở lại được, ví dụ đã làm xếp bốt, thì được phép đi. Còn cha nào không được phép mà cứ đi, sẽ không được làm lễ. Và một số khá đông đã liều mình đi. Vì có kỷ luật như thế, nên cha nào không tuân, tạm gọi là “bất hợp pháp”. Trong toàn bộ các linh mục Địa phận lúc đó là hơn 160, thì độ 100 đã đi. Còn lại độ 60, phần đông là có tuổi. Các cha trẻ còn lại là những cha ở Hà Nội, Phủ Lý, Nam Định: nơi đây các cha này không bị dính líu vào việc đóng “đồn bốt”, nên cảm thấy mình không có lý do gì mà đi.

Địa phận Thanh Hoá, nơi vào năm 1953-1954 đã có cuộc cải cách long trời lở đất. Khiến nói đến Khu Tư là ai cũng rùng mình. Đức Giám Mục De Cooman thì đã qua đời, cha Phạm Tần làm nhiếp chính. Các linh mục đi nhiều, cũng may còn lại một số bảy, tám linh mục trẻ.

Địa phận Vinh, các linh mục rút lui theo đường bộ qua sông Bến Hải. Không có bao nhiêu! Song hàng linh mục ở Vinh còn đông đủ và vững chắc hơn cả trong các Địa phận miền Bắc.

Địa phận Thái Bình còn đang do hàng giáo sĩ Đôminicô Tây Ban Nha quản trị, nên Đức Cha và các cha Tây Ban Nha đi hết. Các xứ hầu hết thành lập đội dân quân, các cha Việt Nam lãnh đạo “thánh chiến” chống Cộng, nên đều phải bốc đi hết, còn lại cha Đôminicô Đinh Đức Trụ, cha Hiếu và vài cha già. Cha Đinh Đức Trụ làm nhiếp chính, sau làm Giám Mục Thái Bình.

Như vậy chỉ trong mấy tháng mà các Toà Giám Mục địa phận miền Bắc, các xứ vắng bóng cha xứ, các cơ sở tôn giáo không có người lãnh đạo.

Lợi hay hại? Hiển nhiên là bất lợi! Là tai họa! Không một cơn bách hại nào trong lịch sử Giáo Hội mà trong một thời gian, một miền rộng lớn như miền Bắc Việt Nam lại bị quét sạch, bị trống trơn như thế. Mà đây không phải là cấm cách mà là trốn chạy, là “tự sát”. “Quo vadis – Thầy đi đâu thế?”. Phêrô hỏi Chúa Giêsu một cách ngỡ ngàng khi thấy Chúa vác thập giá vào Rôma, chạm trán với Phêrô lúc ông này toan trốn khỏi Rôma để tránh cơn bách hại, và theo lời khuyên nhủ của giáo dân, để bảo vệ cho người đầu của Giáo Hội, kẻo người chăn bị đánh gục, đoàn chiên tan tác.

Nhưng đây có phải là trốn cuộc bách hại không? để có lý do mà chạy trốn, như là Chúa Giêsu đánh ở thành này thì chạy sang thành khác. Có thể có vị chạy trốn vì lý do đó, nhất là những vị đã bằng cách nào đó chứng kiến các tàn bạo ở Tây Ban Nha, nhất là ở nước Liên Xô. Bởi đó không ai lên án các Đức Giám Mục, các linh mục đã bỏ nhiệm sở. Cũng có vị cho là rời nhiệm sở, vì cả đoàn chiên, cả địa phận cũng đi, nên các vị đi theo. Thực tế, không phải là ngụy biện, như Địa phận Hải Phòng, thì hầu như cả bầu đoàn kéo nhau đi hết, có còn lại chỉ là những người quen thờ ơ, đi cũng thế mà ở cũng chẳng sao. Đàng khác, có lẽ không có một lời khuyên rõ rệt là nên ở lại. Chỉ có hành động thay lời nói. Đức Khâm Sứ vẫn ở cho tới cùng và số đông các Đức Giám Mục cũng ở lại.

Rồi những vị vào Nam, một số vị được cắt đặt trọng dụng ngay như Đức Cha Chi làm Giám Mục Đà Nẵng, Đức Cha Đoàn, Giám Mục Quy Nhơn. Trừ có Đức Cha Từ rút lui về với giáo dân Phát Diệm di cư và qua đời tại đó. Mộ ngài ở nhà hưu Phát Diệm, Thủ Đức. Như vậy là các vị đi Nam không bị Toà Thánh lên án. Thế thì sao Đức Cha Khuê, đối với những cha nào vào Nam mà không có phép của ngài, ngài rút quyền làm lễ? Đây là một biện pháp kỷ luật để duy trì tinh thần linh mục và tránh những tai hại khác.

Tinh thần chung của Giáo Hội: Chúa chiên phải ở với con chiên, gắn bó với con chiên, và nếu cần chết với con chiên. Đó là lối sống của người mục tử. Và Đức Cha muốn các cha Địa phận phải có tinh thần đó. Giáo dân Địa phận Hà Nội, ngoài các thành phố, ít người di cư hơn các địa phận khác, thường mỗi xứ chỉ lẻ tẻ ít người ra đi. Giáo dân còn lại cả, sao chủ chăn lại chạy đi? Như vậy là thiếu tinh thần. Dĩ nhiên có những trường hợp chủ chăn ở lại sẽ gặp những khó khăn khó lòng kham nổi. Bề Trên xét tuỳ trường hợp và cho phép đi. Chỉ những linh mục nào đi bừa bãi, muốn trốn tránh nghĩa vụ, có thể đi vì mục đích thế gian, thoả chí tang bồng, mở mang kinh tế: những linh mục như thế mới bị kỷ luật. Song việc ở lại cũng không phải là tuyệt đối ích lợi trong mọi trường hợp. Trái lại việc họ ở lại là một tai hại cho họ và cho Hội Thánh. Đó là vấn đề bí nhiệm cũng như Ông Giuđa là một bí nhiệm trong Nhóm Mười Hai.

Hiệp định Geneve loại trừ việc phân biệt trả thù vì đã tham chiến ở bên này hay bên kia. Người ta chỉ tôn trọng trong những ngày đầu. Sau này trong cuộc đối đầu với Mỹ, những người bị coi là ngụy quân ngụy quyền, nếu đã không quy phục làm tay sai cho Cộng sản đều bị bắt. Còn các linh mục, thì từ đầu người ta mời tham gia vào các cơ quan: Mặt Trận Tổ Quốc, nhất là Ban Liên Lạc mệnh danh là những người Công giáo yêu tổ quốc yêu hoà bình. Họ là một tổ chức nhằm tách rời Công giáo với Đức Giáo Hoàng, và ý đồ sâu hơn là phá đạo, làm cho đạo chỉ còn là hình thức. Các linh mục nào đã tham gia việc chống đối, chỉ còn cách gia nhập tổ chức này để chứng minh là người Công giáo đoàn kết, đi với nhà nước chống lại Mỹ. Những linh mục này không được đứng đầu tổ chức đó, nhưng chỉ phải gia nhập một cách thụ động, làm cho con số những thành viên tăng thêm, và do đó tổ chức tăng thêm thanh thế. Giả như những linh mục này đi Nam thì đỡ gây tai hại cho Giáo Hội hơn.

Cha Giám, thuộc Địa phận Phát Diệm, đã vào Nam. Cha lại xin Đức Cha Từ để trở về. Đức Cha hỏi vì lý do nào mà cha xin trở về. Cha thưa: “Con thấy mình tội lỗi, con muốn về miền Bắc để đền tội”. Đức Cha Từ nói với chính quyền miền Nam để cha Giám trở về. Cha Giám thuật lại việc đó trong một cuộc hội họp của các linh mục Liên Khu Ba do Mặt Trận tổ chức hồi tháng 6 -1956. Cha còn khoe: “Cán bộ biếu cha một cái cặp da”. Tính dễ hội nhập, không bao lâu sau, cha trở nên thành viên chính thức của Tổ Chức Liên Lạc, một nhân vật có vai vế. Ngài được cung cấp một xe máy (rất quí hiếm trong thời buổi đó). Một hôm cha phấn khởi cưỡi xe máy, phóng thế nào đâm vào gốc cây, và cha đã qua đời khi đưa vào bệnh viện (1965).

Có thể kết luận:

1. ở lại miền Bắc theo tinh thần gắn bó với đoàn chiên là tinh thần của Chúa Giêsu mục tử.

2. Người nào vì khó khăn không thể ở lại được hoặc theo lương tâm, xét mình khó đững vững trong môi trường nghịch với đạo, người đó có thể rút đi. Nên trình bầy với Bề Trên trước khi quyết định.

3. Ra đi một cách vô trật tự, theo lợi riêng cho mình: như thế làm thiệt hại giáo xứ được trao phó cho mình, thiệt hại các linh hồn và phải chịu trách nhiệm về các việc đó.

Bởi thấy một số cha ở lại, không giúp cho đạo, trái lại gia nhập hàng ngũ những việc ảnh hưởng xấu đến Hội Thánh. Tình trạng các linh mục thuộc Địa phận Hà Nội đã đi Nam, được xem xét lại. Và rồi tất cả đã được hợp thức hoá, gia nhập các địa phận miền Nam. Các linh mục này tận tụy với các giáo phận mình gia nhập, được các nơi đó quí mến. Hà Nội được các Bề Trên giáo phận miền Nam tin tưởng và khen ngợi. Đó cũng là một cách tạ lỗi với Chúa, với Hội Thánh bởi đã ra đi.

6. Tình hình các địa phận sau 1954

Sau ngày 20-7. Trừ địa phận Hà Nội, các địa phận đang trong tình trạng không người chăn dắt. Đức Khâm Sứ Dooley và cha thư ký của ngài O’ driscoll vẫn ở Hà Nội. Ngày ngày Đức Khâm Sứ và cha thư ký để ra hàng giờ đồng hồ để đi dạo phố, ít khi các ngài bỏ việc đó. Không hiểu các ngài đi bộ cho khoẻ hay để làm gì. Chắc là cán bộ cũng không vui mắt, vì ngày nào cũng thấy hai người ngoại quốc cao lêu nghêu, trong bộ áo trùng thâm đi “lượn trên đường phố”. Đức Cha Khuê, ngược lại hẳn, không ra khỏi nhà. Các cửa trước đây chỉ có cửa chớp, thì đã có những chấn song rào chặt: nội bất xuất, ngoại bất nhập. Cũng là may, vì có những lúc cần phải đóng kín để không ai lọt vào. Không phải là để giữ kẻ trộm, nhưng là giữ người ngay. Người ngay đó là con cái mình, là những người vỗ ngực nói: “Chúng tôi mới là giáo hữu” chân chính. Vì có những lần, những người giáo hữu chân chính này được sự thúc đẩy bởi đâu đó, từng đoàn lũ năm, sáu chục người kéo nhau đến để ý kiến với Bề Trên hoặc xin bỏ điều này, làm điều kia theo ý họ. “Hội Thánh bây giờ dễ mà!”. Người Công giáo cũng phải làm việc gì để tỏ ra yêu nước. Để rửa cái tiếng xấu mà đạo ta đã mắc là: “vì đạo mà mất nước”. (có ý nói, ngày trước vì đạo, mà người Tây đã đến chiếm nước ta, cai trị nước ta cả trăm năm).

Không phải Đức Cha Khuê không đi đâu. Ngài đã đi rất hăng. Trong mấy năm đầu, ngài đi khắp địa phận. Mấy năm cải cách không đi đâu được. Sau đó ngài lại đi các nơi được một năm thì vào lúc sửa sai. Hết sửa sai mới không đi đâu được. Các vị đọc đoạn này có biết thế nào là sửa sai, thời kỳ sửa sai không?

Đại để như sau: trong thời kỳ cải cách ruộng đất 1958. Khẩu hiệu được nêu cao “nhất Đội nhì Trời”. Đội là đội ngũ cán bộ đi làm việc cải cách ruộng đất ở nông thôn. Đội lộng hành: cho ai chết thì người ấy phải chết. Cho ai sống thì người ấy được sống. Trời còn phải thua – Nhất Đội nhì Trời. Nhưng cũng như người ta có lúc bảo: Trời không có mắt, đánh đập lung tung; thì Đội còn trên cả Trời, đánh đập còn lung tung hơn cả Trời. Đánh sai, đánh bậy, đánh láo, đánh bừa. Oan hồn kêu ca, người vô tội kêu ca, người lành kêu ca, cả đến người dữ cũng không giữ được miệng. Do đó phải có cuộc chấn chỉnh lại, đánh giá lại: cái đúng bảo là đúng, sai bảo là sai, rồi cố sức lấy can đảm sửa sai. Đường lối cũng kể là nhân đức. Những người làm sai sửa được bao nhiêu không biết? Còn người bị quy sai, đòi sửa sai cũng cất tiếng kêu than khắp nơi khắp chốn. Vì ở chỗ nào cũng có sai, chỗ nào cũng có tiếng kêu ai oán.

Nhân đó cái dây căng thẳng đang xiết chặt dân chúng như bi đứt tung ra, những người bị qui sai vùng lên – và hầu hết là sai – vì trong cải cách ai cũng phải tìm cách mà tố cáo, không có thì phải bịa đặt, dối trá. Mà thường là bịa đặt. Nên biết sửa từ đâu? sửa cho ai trước? Các cán bộ cải cách chuyển đi đâu hết, có còn đứa nào mà vạch mặt. Thế mới biết cái khéo léo đến quỷ quyệt của việc cải cách những nhân viên, đội viên được chọn từ đâu không ai biết, rồi xong công việc họ biến đâu hết. Có thấy mặt anh nào đã làm sai. Bấy giờ tung ra cái tin rạch mép bọn chúng. Nhưng có bắt được tên nào đâu mà rạch mép. Cái khéo léo là bọn đó từ đâu đến không ai biết, rồi chúng biến đi đâu, lúc nào không ai biết. Những mẹo quỉ quái đó chắc là từ bên Nga, bên Tàu đã nghiên cứu, và dân ta chỉ học lại.

Sau này làm sai cũng là một chính sách. Khi mà quyết định giết sạch, phá sạch, quét sạch, thì làm sao đúng hết được. Cải cách như là một “cái roi” từ trời xuống, đập tan, đánh đổ, phá sạch, không phân biệt tốt xấu. Nay còn biết chỗ nào sai mà sửa lại. Nói sai, thì có thể nói là sai hết. Và sai hết thì sửa làm sao?

Ta cứ tưởng tượng, một khối người bị những dây ràng buộc trói chặt, cả tay cả người, từ thể xác đến tinh thần, từ trên đến dưới, bây giờ các dây ràng buộc đứt tung. Cả khối bung ra, bắn toé từng mảnh văng đâu thì văng, chẳng còn định hướng, luật lệ chi cả. Sau mấy năm tháng cải cách, lúc mà nhất Đội nhì Trời, ai dám nhìn qua Trời mà tới Đội. Ngày nay công việc tan tành, gọi là sửa sai, sai ở chỗ nào, ở người nào?

Đối với đạo, được một thời kỳ tương đối tự do. Đức Cha Khuê nhân cơ hội đi các nơi, đi bất cứ lúc nào, muốn đi đâu thì đi, thỉnh thoảng ngài xuống Nam Định, vào nhà xứ không thấy tôi, đến nhà ông trương Trúc và ăn cơm ở đó.

Cũng nên nói: chỉ có hai người ở miền Nam Định mà Đức Cha Khuê tiếp chuyện và họ hầu chuyện được với Đức Cha, đó là ông Trương Trúc, và bà Trùm Dung. Bà này chỉ là công nhân nhà máy Dệt, ít chữ nghĩa, ít nói. Nhưng có lẽ cái vẻ hiền lành đạo đức của bà làm ngài dễ gần.

Trong hơn một năm, ngài đi thoáng qua được nhiều nơi trong địa phận. Rồi công việc dần dần thấy khó khăn. Lần ở Kẻ Sở về quá Phủ Lý, người ta chặn xe hỏi giấy.

Nghiêm trọng nhất là việc xảy ra ở xứ An Lộc. Cha xứ An Lộc là cha Vũ Xuân Kỷ, lúc này đang đứng đầu nhóm Công giáo cấp tiến, là nhóm Công giáo theo nhà nước, thường mệnh danh là nhóm Công giáo “yêu nước”, vì họ thích gán danh từ “yêu nước” cho mình.

Nhóm quấy phá

Hội Liên Lạc không phải là một hội được thành lập để tồn tại và xây dựng đạo giáo. Nó chỉ là một cách chia để trị, lấy gậy ông đập lưng ông. Gây rối, làm xáo trộn trong đạo, nhà nước đâu có làm. Đó là những người trong đạo đấy chứ. Đúng thế. Có người cán bộ hay vô thần nào đi vào nhà thờ mà quấy rối? Có sắc lệnh hay đạo luật nào chạm đến đạo? Chẳng thấy người ngoài nào mà chỉ thấy toàn là người Công giáo phá quấy trong nhà thờ.

Nhưng người Công giáo quấy phá này là thế nào? Thường thường họ là những người khô khan, hoặc những người đã có chuyện gì với nhà xứ, nên họ ác cảm với các linh mục, hoặc người làm việc nhà thờ. Có cả những người sống lỗi luật đạo, chẳng hạn bỏ vợ lấy vợ khác, hoặc kết bạn không hợp phép đạo. Họ được người ta tuyển chọn, tuyên truyền nhồi nhét những tư tưởng đối nghịch với đạo, được phát động chống Giáo Hội. Thực ra, những người này chỉ có thể chống đạo bằng cách quấy phá.

Này đây: Một hôm Cha Antôn Nhân cất Mình Thánh ở Nhà thờ Khoái Đồng, thế là một dịp cho họ quấy phá. Xứ Khoái Đồng là một xứ nhỏ bé, lúc này độ năm, sáu chục giáo dân, ở trong thành phố Nam Định, nhưng lại thuộc quyền trị của địa phận Bùi Chu. Miền đất đó trước kia ngăn cách với thành phố Nam Định bởi một con sông nhỏ, con sông ngăn cách, hay đứng làm ranh giới giữa Hà Nội và Bùi Chu. Con sông đó được lấp đi, và một con sông đào xuất hiện bao vây khu đất đó cho sát nhập với thành phố. Khu Khoái Đồng đó bỗng nhiên là phần đất trong thành phố nhưng thuộc quyền Jundictio của Bùi Chu.

Khi chia địa phận Bùi Chu thành địa phận Dòng, khu Khoái Đồng đó được địa phận nhường cho dòng Đôminicô, đổi lại, các cha Đôminicô trả lại trụ sở nhà dòng Quần Phương, cho Tòa Giám Mục.

Khu Khoái Đồng từ năm 1945, trở thành trụ sở của Dòng Đôminicô, hiện còn cai quản ba địa phận ở miền Bắc: Thái Bình, Hải Phòng, Bắc Ninh. Có trường Đại Chủng Viện Albertô cho các Chủng sinh Hải Phòng, Thái Bình, Bắc Ninh, Bùi Chu.

Có xứ Khoái Đồng ranh giới về phía thành phố là phố Bến Ngự, Hàng Đồng… về phía số lẻ. Phân định theo nguyên tắc, nhưng thực sự từ 1948, hầu hết giáo dân đổ xô về phía “thành phố”, phía “tỉnh”, tức là xứ Nam Định thuộc địa phận Hà Nội.

Từ năm 1948 đến 1954, xứ Khoái Đồng khá sầm uất. Có lúc như cạnh tranh với xứ bên cạnh. Lợi thế của xứ: Nhà Khoái Đồng to lớn, có cha xứ nhà thờ do Dòng Đôminicô cắt đặt. Ngoài ra những dịp lễ lớn, có lực lượng Tu Viện Đôminicô, Đại Chủng Viện Albertô tham gia, giáo dân tuy một, hai trăm, nhưng tổ chức rất rầm rộ. Bà con giáo dân thành phố cũng thích sang tham dự, vì là khách, được trọng vọng, có chỗ ngồi.

Vào năm 1952-1953, tôi về Hà Nội làm thư ký Toà Giám Mục, không có linh mục trẻ đứng tổ chức hội đoàn, bà con kéo nhau sang Khoái Đồng hết. Những đám rước có cả mấy trăm cụ ông cụ bà sốt sáng trong bộ áo Dòng Ba Đôminicô. Nên khi tôi về lại Nam Định 1953, kiếm mãi mới được vài chục ông bà còn “trung kiên” ở lại để làm nhân viên hội “Đạo Binh Đức Mẹ” và Dòng Ba Thánh Phanxicô.

Năm 1958, Kỷ niêm 100 năm Đức Mẹ hiện ra ở Lộ Đức. Năm Đức Mẹ, cũng tương đương như năm Toàn Xá. Thường thường là các xứ tự tổ chức lấy chương trình. Địa phận chỉ đưa ra mấy nét chính. Xứ Nam Định tổ chức mừng Năm Thánh vào các ngày lễ lớn. Đặc biệt là vào ngày 11 tháng 2 năm 1958. Một cuộc rước lớn từ An-Phong về nhà thờ lớn. Tượng Đức Mẹ để trên một chiếc kiệu là một cỗ xe. Một ngọn núi lớn bằng giấy, cao tới 2 phần 3 tháp nhà thờ được dựng lên trước cửa nhà thờ. Tượng rước từ An-Phong về, được đặt trên núi, và Thánh lễ chủ sự cử hành ở bàn thờ cũng ở lưng chừng núi. Lúc đó, người ta thích cung cách tổ chức trên cao như thế.

Có người kể rằng, hôm đó Bác Hồ về qua Nam Định thấy có cuộc rước to tát như thế, nói với địa phương: “Bây giờ mà còn thế à!”. Thế mới biết ở Nam Định việc đạo vẫn đàng hoàng. Được vậy là nhờ lòng sốt sáng của giáo dân. Phần lớn là người gốc Bùi Chu. Dĩ nhiên những người Bùi Chu không phải tất cả là sốt sáng. Có những người sốt sáng nổi bật, mà những người khô khan thì cũng vào hạng độc nhất. Những người tiêu biểu cho lòng đạo đức, cũng gốc Bùi Chu, mà những người đứng lên chống phá đạo cũng là gốc Bùi Chu hoặc Phát Diệm.

Ta thử xem ở Nam Định, Hà Nội, những người chống đạo là ai?

Người ta có chủ trương phá tôn giáo – Và người ta không muốn làm việc đó theo lối những vua chúa ngày xưa: bắt bớ, tù đầy, giết chóc. Bây giờ người ta nói: phá đạo một cách khoa học: lấy chính người có đạo mà phá đạo.

Họ thực hiện thế nào?

Đây một xứ đạo: Trong xứ hiện tại 95% giữ đạo, một số còn lại lờ mờ, khô khan, cũng lấy vợ nọ con kia. Một số rất ít chẳng may có cái gì vướng vấp với xứ đạo, với cha xứ. Thế là người ta khai thác những người này. Không phải để chống lại cha xứ, cho bằng làm dụng cụ gây rối trong nhà thờ. Ví dụ: lần kia cha Nhân cất Mình Thánh ở nhà thờ, vì người giữ nhà thờ đã bội phản, làm cho nhà thờ ấy mất tính cách chính đáng. Buộc phải cất Mình Thánh. Người ta cho việc cất Mình Thánh là loại bỏ nhà thờ đó, tựa như “rút phép thông công”. Chính ra trong Hội Thánh có hình phạt trong những trường hợp đó, gọi là “vạ cấm” (interdit).

Người ta phản bội bằng cách nào? Lựa một ngày Chủ Nhật hay lễ lớn nào đó. Một số người “chống đối” được chỉ định ngồi rải rác trong nhà thờ – chờ lúc nào linh mục giảng, tìm cơ hội phá rối. Chẳng hạn linh mục giảng về ăn năn thống hối tội lỗi để dọn mừng lễ, chừa nết xấu như cờ bạc rượu chè, giai gái. Nói đến tiếng rượu chè cờ bạc giai gái, những tiếng có vẻ tục hoá. Thế là một người nào đó, ngồi bên cạnh can: để cho chúng tôi nghe giảng. Thế là người kia cũng nói lớn “xin cha giảng Phúc âm”. Cả bọn người định quấy phá, đang ngồi rải rác các nơi, nhất loạt nói lớn “xin cha giảng Phúc âm”. Rồi những tiếng phản lại khắp nhà thờ ồn ào như cảnh chợ, linh mục không còn giảng được nữa, đành lên bàn thờ, đành cất Kinh đền tạ Trái Tim Chúa, để xin Chúa tha thứ về cảnh lộn xộn bất xứng như thế trong nhà thờ, rồi tiếp tục dâng lễ.

Đó là trường hợp phá rối bình thường, còn có những cuộc phá rối đi đến tù ngục. Như một lần, đang khi có cảnh xôn xao lộn xộn trong nhà thờ. Anh trưởng ban hát trên gác đàn, đứng ra trước bao lơn nhìn xuống cảnh lộn xộn. Anh bị qui cho cái tội đứng trên gác đàn nói “đánh chết bỏ mẹ nó đi”.

Như vậy anh bị qui trong các tội “đứng chỉ huy việc ẩu đả”, vì hôm đó có việc lộn xộn gần như ẩu đả. Chính cái người đàn bà, mụ ta đứng đầu gây rối hôm đó, tỏ vẻ hung hăng gây rối, để cho đến chỗ dùng chân tay, và bà ta đã đi tới chỗ gần xô xát nhau. Bà đến thẳng gác đàn, gặp một chị trong ban hát xuống, bà ta gây sự. Chẳng biết có chuyện võ lực hay không, chị này bị bắt giam, vì đã tát bà kia, chị bị giam ba tháng, và được tha sớm vì đang mang thai. Còn anh đứng ở bao lơn, bị qui là chỉ huy việc đánh người, bị kết án tù 3 năm và án treo 6 năm. Cái án treo này nó lơ lửng treo cổ anh, hết 6 năm này, tiếp 6 năm khác, vì chưa cải tạo tốt, rồi cứ thế lủng lẳng trên cổ anh cho tới lúc anh lìa đời, vào cái tuổi ngoài 50.

Lòng tin đạo

Lòng tin đạo, ở đâu và thời nào cũng thế, không ở những thử thách mà phai mờ hoặc mất đi, trái lại, những thử thách đó, như những nét chấm phá trên một bức tranh, làm cho bức tranh càng sống động tươi đẹp hơn. Trường hợp ở xứ Nam Định thật là đặc biệt.

Những ngày đầu 1954, trong xứ những khuôn mặt quen biết không còn. Nếu có còn năm, bảy gia đình, thì rồi ít lâu cũng biến mất. Tiêu biểu nhất là hai gia đình ông giáo Nhàn và ông trương Trúc. Hai gia đình đứng đầu trong xứ cả về mặt uy tín, cả về mặt tài chính. Gia đình ông giáo Nhàn ít lâu cũng biến mất. Còn lại gia đình ông trương Trúc, thực sự chỉ còn những con dại, chứ những con lớn thì đã đi từ lâu. Một số những khuôn mặt mới xuất hiện, khiêm tốn. Ông Thụy, Bà Khang Đinh, Ông Lương Càn, họ chỉ có mặt nơi nhà thờ cách đều đặn, sáng chiều, Lễ và Chầu.

Bắc 54 Là Thế Nào ?
Cuộc di cư vĩ đại năm 1954 – gần hai triệu người từ Bắc vào Nam, làm cho những người gốc miền Nam lo sợ, khó chịu, vì họ cho rằng nhóm di cư này sẽ đến cướp các nguồn lợi của họ, ảnh hưởng đến nguồn kinh tế của họ. Họ kỳ thị, không ưa những người di cư đó. Nhưng từ 1975, tâm trạng kỳ thị đó thay đổi. Cộng sản từ miền Bắc tràn vào, người miền Nam được hưởng chế độ mà họ hoặc không biết đến, hoặc mơ ước. Nay họ được nếm cái hà khắc, tàn bạo của chế độ, họ mới hiểu tại sao mà người miền Bắc hồi 54 đ• ồ ạt chạy xuống miền Nam. Họ hiểu lý do và từ đó họ thương, họ mến những người miền Bắc 54. Bắc 54 đối nghịch với Bắc 75. Người Bắc 6 V: “Vào vơ vét, vội vàng về”. Bắc 54 đến làm giầu cho miền Nam, 75 bóc lột miền Nam đến tận xương tuỷ.

Thiên Chúa luôn rút được sự lành nơi sự dữ. Những người ở lại cứ hao mòn dần, các linh mục còn lại chết đi không người thay thế. Người ta đóng cửa Chủng Viện, để không có thêm linh mục. Xin truyền chức, người ta nói không cần, vì chính các ông đ• bỏ đi miền Nam. Đó là tai hại.

Người vào Nam được hưởng tự do, mở mang trí tuệ, tiếp xúc với thế giới tự do, với Toà Thánh, tiếp nhận những đổi mới của Toà Thánh, của Công Đồng Vatican II. Một giáo đoàn tiến kịp với các giáo đoàn khác trên thế giới, xây dựng được một di sản lớn cho giáo đoàn Việt Nam sau này: về nhân sự cũng như kho tàng kiến thức.

Giáo đoàn miền Bắc sống trong bức màn sắt hay màn tre gì đó, chỉ được biết cái gì do Đảng và Nhà Nước hé mở cho. Nhưng Chúa Thánh Thần tác động: giáo đoàn đó giữ vốn đã có và đức tin vững mạnh qua lửa thử thách. Một đức tin đơn sơ mộc mạc, song có chiều sâu, khó có gì lay chuyển. Đó là cái lợi.

Trong khi đó miền Nam được dễ dàng tiếp xúc, dễ dàng đón nhận những trào lưu tốt cũng như xấu. Một đức tin nặng về hình thức, thiên về trí tuệ, đánh giá con người và cả các linh mục theo bằng cấp, học vị. Đó cũng là điều mà miền Bắc ban đầu không chấp nhận, song dần dần thấm nhập.

Cũng như Nhà Nước tiếp nhận kinh tế thị trường với nhiều dè dặt. Giáo Hội miền Bắc cũng tiếp nhận ảnh hưởng miền Nam một cách dè dặt. Song cũng có vô số người tôn thờ miền Nam, hễ miền Nam có cái gì là chấp nhận hết. Coi miền Nam là tiêu chuẩn cho đời sống xã hội cũng như Giáo Hội. Đó cũng là điều không hay khi nó gây hoang mang chia rẽ, hơn là hợp nhất.

  1. Không có bình luận
  1. No trackbacks yet.

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Twitter picture

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Twitter Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s

%d người thích bài này: