Những Câu Chuyện Về Một Thời
Đó là phong thái của một nhân cách cao cả vượt trên tất cả những tầm thường nhỏ nhen. Mỉm cười trước những tranh đua hơn thiệt. Mở rộng tấm lòng cảm thông với những sai sót. Bao dung tha thứ những xúc phạm. Vượt lên trên chính mình để thấy tất cả vui buồn, vinh nhục, thành bại rồi cũng sẽ qua đi. Chỉ còn đức bác ái tồn tại. Đức bác ái thể hiện qua lòng nhân ái.
Tất cả những điều đó bàng bạc trong suốt những câu chuyện tích lũy từ nửa thế kỷ qua… ngòi bút của ngài thẳng thắn trung thực nhưng không gay gắt chỉ trích khi đề cập đến những sai lầm quá khứ; tỉ mỉ chi tiết nhưng nhẹ nhàng tha thứ khi ghi lại những xúc phạm mà ngài là nạn nhân; phân tích cặn kẽ nhưng không chút cay đắng khi kể lại những biến cố đau thương ngài đã trải.
Hà Nội ngày lễ Xá tội Vong nhân 2009
+Giuse Ngô Quang Kiệt
TGM Hà Nội
.
Những Câu Chuyện Về Một Thời
Hồi ký của Đức Cha Phaolô Lê Đắc Trọng
.
Thành quả của cải cách ruộng đất
Mấy sào ruộng rồi sẽ đưa vào hợp tác xã để ông chủ lại đi cầy thuê. Cái bằng chứng nhận kia, chỉ đem vứt vào sọt rác, vì nó chỉ còn là một tờ giấy vô giá trị. Cảnh người cầy có ruộng đã lại lên mây!
Cái bầu trời phát quang, cái mặt đất phẳng lì lì. Muốn dựng lên cái gì thì dựng, với cái tính tàn khốc, tính quá khích, đã tạo nên bầu trời quang, và cái mặt bằng cái tính tình man rợ đó đã in sâu trong lòng, không biết phải bao nhiêu thế hệ mới xoá nổi chăng?
Trên tờ “Chứng nhận quyền sở hữu ruộng đất” có ghi cái khẩu hiệu để viết trên mặt bằng của cải cách. “Xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giầu mạnh”. Vẫn chưa thoả mãn? Đẹp thế mà! Làm sao thời kỳ cải cách mọi cái thay đổi khá nhiều, theo hướng đi lên hay đi xuống, không biết? Cả Đức Cha Khuê cũng có vẻ đổi thay. Ngài đi kinh lý xứ Nam Định. Tôi theo Ngài ra thăm Mặt trận Tổ Quốc. Thay đổi đấy. Ngồi đối diện với ông Chủ tịch Mặt trận, Ngài chúc sức khỏe ông Chủ tịch và các nhân viên.
Điều cập nhật hơn, Ngài bầy tỏ lòng yêu mến nước Việt Nam. Cầu mong nước Việt Nam hạnh phúc.
Ông Chủ tịch bất cần nhã nhặn, phản ứng ngay: “Nói Việt Nam không đủ”. Phải nói là “Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa”. Tim Đức Cha không biết có bị nhói không, phần tôi thì sạm mặt lại. Chúng tôi ngần này tuổi đầu, học hành gì mà cái tên nước Việt Nam cũng không nói đúng.
Việt Nam dù là hoà bình, là thống nhất, là giầu mạnh hay gì đi nữa, cũng không đủ. Cải cách ruộng đất không chỉ đi đến mục tiều đó, nhưng là tới cùng đích: Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa. Xã hội chủ nghĩa là gì?
Ai cũng hiểu. Như vậy, cải cách ruộng đất là sách lược cơ bản, không phải là cái gì tuỳ tiện. Những phương pháp tàn bạo, không phải là cái gì vượt ra khỏi dự phòng, cả những cái gọi là sai lầm cũng là giả tạo, để lấy cớ sửa sai.
Trước khi cải cách, nhiều người hy vọng vinh quang đang đến với mình, có thể phấn khởi hô lên: “Cải cách muôn năm! Cải cách muôn năm!”
Sau này, dù có những tai tiếng đến đâu, những ai nhờ đó mà có chỗ ăn chỗ đứng, trong thâm tâm vẫn phải vang lên “Cải cách muôn năm”.
.
Phải chăng đó là trong chủ nghĩa duy vật?
Theo chủ nghĩa duy vật, đem giải thích theo lịch sử quan thì xã hội loài người theo cơ cấu hạ tầng cơ sở và thượng tầng cơ sở (super-structure). Hạ tầng cơ sở là vật chất thì bất biến. Thượng tầng cơ sở là trí tuệ, là kiến thức, là luân lý, là tôn giáo, là quyền bính thì thay đổi. Chính kinh tế làm thay đổi, biến thể. Thượng tầng cơ cở là nền tảng của chủ nghĩa duy tâm, mà kinh tế làm thay đổi. Lịch sử thế giới, theo họ, biến đổi, tiến bộ, không do trí tuệ, do chiến tranh, do tôn giáo, do tiến bộ khoa học. Nhưng là do kinh tế chi phối và họ đưa ra lịch sử quan để giải thích những giai đoạn loài người đang trải qua. Từ lúc kinh tế còn thô sơ cho tới nền kinh tế phức tạp ngày nay. Chính là kinh tế làm thay đổi mọi sự.
Theo chủ nghĩa Mác-Ănghen: Lịch sử thế giới diễn biến theo nhịp kinh tế, từ đời sống hang hầm, đá đẽo, cho tới thời đại điện tử. Kinh tế chi phối tất cả, nó làm thay đổi cái thượng tầng cơ cấu. Do đó, cải cách ruộng đất cũng trong đường lối diễn biến đó. Nó làm thay đổi bộ mặt xã hội, mà nền tảng là duy vật. Nó là duy vật nên không chấp nhận cái gì là thiêng liêng. Làm gì có Chúa, có thánh thần, có cái gì là linh thiêng cao cả, có cái gì là ở trên, có cái gì là cái đáng kính, đáng trọng, có cái gì cần nể nang, cần phải bảo tồn? Chủ nghĩa duy vật mù quáng, chôn vùi mọi thứ xuống đất, không chút thương tiếc.
Vì thế cải cách ruộng đất dựa vào chủ nghĩa duy vật, có thể đập phá lung tung, không phải kiêng nể bất cứ cái gì, phong trào được phát động đến mức con cái có thể đào mả bố, đấu tố sỉ nhục cha mẹ. San bằng tất cả những cái mà các chế độ, các thời đại trước đã tạo nên, để xây dựng một thượng tầng cơ sở mới, không biết nó sẽ là cái gì, vì vật chất thì mù quáng làm gì có cái kim chỉ nam. Sống suy nghĩ theo Mác-Ănghen thì nó miên man và ảo tưởng đến thế!
Nông dân vô sản làm gì mà biết suy luận như thế? Người ta bảo đánh thì đánh, đập phá thì đập phá. Rồi họ mãn nguyện với mảnh bằng, chứng thực. Họ được làm chủ mấy sào ruộng, để rồi ít lâu nữa sẽ rời những cái ghế chủ nhân. Bây giờ họ chưa biết thế đâu!
Tấm bằng được trình bầy một cách rất lộng lẫy khổ 60 x 40 có ghi những chữ lớn với nét đỏ thắm: Giấy chứng nhận quyền sở hữu ruộng đất.
Sau đó là kê khai những thửa ruộng được làm chủ. Cuối cùng lại hiện ra những dòng chữ viết khá lớn, để cho thấy nội dung cũng quan trọng. Đó toàn là những khẩu hiệu đã được ghi đó đây, được để ở cửa miệng để hô to. Ghi ở đây, chúng lại có ý nghĩa đặc biệt. Câu đầu là: “Tăng cường đoàn kết”.
Đoàn kết ở đây, trong lúc này nó có ý nghĩa đặc biệt. Nói theo chủ thuyết Hegel, một trong những chủ thuyết của chủ nghĩa Mácxít-Hegel chủ chương thuyết Tan Hợp, Hợp Tan Antithèse và Synthèse. Xã hội chứa đầy những mâu thuẫn (Antithèse). Xã hội luôn có những mâu thuẫn (Antithèse) và do cuộc đấu tranh giữa những cái mâu thuẫn, đi tới tổng hợp (Synthèse). Tổng hợp đây không có nghĩa là hợp những cái mâu thuẫn lại, nhưng là các mâu thuẫn loại bỏ nhau, thành một cái mặt bằng (Synthèse). Đó chính là điều mà bản Tuyên Ngôn của Mác mở đầu: “Hỡi các bạn vô sản trên thế giới, hãy đoàn kết lại”.
Trong cải cách ruộng đất: giới vô sản, tức bần cố nông đứng sau Đảng, lật đổ không những giới chủ ruộng, mà còn cả những mâu thuẫn đối nghịch khác, để làm nên một mặt bằng gồm những người khố rách như nhau, để rồi trên đó sẽ có những người có cái khố lành hơn, cái áo sặc sỡ hơn, làm nẩy nở những mâu thuẫn khác (Antithèse). Đó chỉ là những cái mà giới chóp bu đưa vào để tìm nguồn động lực cho hoạt động của mình; còn dân chúng thì chỉ bị lái, mà nổi lên một cách vô ý thức.
Sau cuộc đấu tranh mệt mỏi, được thưởng bằng một tờ giấy có ghi: “Giấy chứng nhận quyền sở hữu ruộng đất” là hể hả. Nhưng còn phải giữ cái thành quả đó bằng “tăng cường đoàn kết”, rồi “nâng cao cảnh giác”. Nâng cao cho đến lúc ruộng đất được đem đi dâng, còn lại mảnh bằng, có cất kỹ thì may ra lâu mới không mục vì nó bằng giấy. Nhưng cái gì con người tạo nên, nó cũng sẽ mau biến đi như thân phận con người.
Cải cách ruộng đất chỉ là một công cụ mà Đảng Cộng Sản nước nào cũng dùng để xây dựng và củng cố quyền bính. Nó là công cụ, nên chỉ là giai đoạn, vì chỉ được dùng vào một thời nào đó. Những cảnh rùng rợn nó gây nên, chẳng bao lâu người ta cũng nguôi đi, hoặc bị làm cho quên lãng.
Khoảng tháng 10 năm 1956, người ta mời tôi đi họp. Sao người ta lại mời tôi, họp về việc gì tôi cũng không nhớ! Kỳ cục thay, địa điểm họp chính lại là ở trường đào tạo cán bộ cải cách ruộng đất ở thị xã Phủ Lý.
…
Họp sau khi cải cách, giữa trường đã đào tạo đội cải cách, mà không nói gì tới cải cách. Không khen, không chê, không rút kinh nghiệm. Ở dưới mái nhà đã che nắng mưa cho những người được huấn luyện để đi gây rùng rợn, sợ hãi cho kẻ khác. Nằm trên những chiếc giường mà hôm nào đó, những người cán bộ cải cách ruộng đất đã có những đêm ngủ ngon, để rồi đi gieo đau thương vào tâm hồn và thể xác của hàng triệu dân lành.
…
Họp sau ngày cải cách, họp trong trường đào tạo cán bộ cải cách, mà không nói gì đến cải cách, lại chỉ nói đến chuyện ở đâu. Y như người ta muốn quên đi những chuyện về cải cách. Quên thật, những ngày họp ở đây toàn là những ngày “chiêu đãi” để lấp liếm mọi chuyện. Được đi họp những buổi như thế này là vinh dự lắm, phải ở cấp nào, công tác làm sao mới được vinh dự đó. Không hiểu sao, tôi lại được cái vinh dự đó!
.
Hoàn Thành
Trong cuốn Biên Niên Sử có nói: “Cuộc cải cách ruộng đất đã hoàn thành, mười triệu nông dân có ruộng cầy”.
Một cuộc cách mạng long trời lở đất, mà kết quả có thế thì cũng khiêm tốn. Đó chỉ là cái khiêm tốn giả tạo, sự thực kết quả to lớn hơn vô cùng.
Lấy được ruộng ở tay người địa chủ ra, không phải là việc dễ dàng. Phải có những bàn tay mạnh mẽ, đi tới tàn bạo của một chính thể độc tài chuyên chính. Người ta vẫn nói vô sản chuyên chính.
Lấy lại ruộng đất để chia cho những người cầy, không phải là mục tiêu chính của việc cải cách và chính việc cải cách cũng không phải là mục tiêu của cách mạng.
Lấy lại ruộng đất chỉ là phương tiện để cải cách, chính việc cải cách cũng chỉ là phương tiện cho sự thống trị của giai cấp vô sản. Nói đúng ra cho sự thống trị của Đảng chuyên chính được thiết lập vững chắc.
Nói cải cách ruộng đất: ruộng đất là cái mồi lôi cuốn những kẻ không có ruộng tham dự vào cuộc đấu tranh. Trong tay không một tấc đất, mai kia sẽ làm chủ, chứ không đi làm thuê, lấy thân làm trâu ngựa. Nghe thế ai mà không phấn khởi, tích cực tham gia? Như thế ruộng đất là cái mồi thúc đẩy việc cải cách.
Cuộc đấu tranh đòi ruộng đất là động lực chính, lại còn được dùng để đánh đổ các thế lực khác! Có phải địa chủ mới phải đánh gục để lấy đất ra? Còn có những kẻ khác không có ruộng hay ít không bõ, nhưng họ uy quyền, uy thế uy tín trong nông thôn. Cả những người được vị nể một cách xứng đáng: có đạo đức, có lòng quảng đại; cũng là những đối tượng phải đánh gục. Các thành phần này có thể đông hơn là địa chủ nhiều. Lấy việc đòi ruộng để chia là cách dễ đi vào lòng người, để mà đánh vào những thành phần khác. Như vậy cải cách ruộng đất trở thành phương tiện cho cách mạng. Vì thế, kết quả việc cải cách ruộng đất, không chỉ vẻn vẹn trong tình trạng mười triệu người có đất cầy.
Cải cách ruộng đất là một cách quét sạch những địa chủ, những cường hào ác ôn, ác bá, những người có uy tín, những người có mầm mống để vươn lên. Tất cả những gì mà cách mạng cho là đối nghịch, là nguy hiểm trong hiện tại và trong tương lai. Quét sạch, để cho xã hội trở nên một tờ giấy trơn, để Đảng muốn vẽ gì thì vẽ, theo ý mình.
Không có cái gì gai gai lên, xã hội trở nên mặt bằng, Đảng muốn đặt hình tượng nào thì tuỳ ý. Không sợ có hình thể nào lén cài lại. Sao lại nặn tôi lên như thế? Sao lại đặt tôi vào chỗ này? Đảng làm vậy để toàn năng như ông Trời.
Đó, kết quả của việc cải cách là thế, là quét sạch mọi thế lực bị coi là thù nghịch. Chứ có phải lấy ra mấy triệu mẫu ruộng, đem chia ra, rồi có ngày lại thu về? Là tạo nên một cái mặt bằng, không gì gợn lên. Cái gọi là vô sản chuyên chính, cũng chỉ là cái áo khoác cho dân nghèo là phần đông trong xã hội nhìn cho vừa mắt.
.
Phong trào cải cách ruộng đất khựng lại
Phong trào cải cách đang vùn vụt tiến tới, đỉnh ngọn lửa đấu tranh đang ngùn ngụt bốc lên như hoả diệm sơn, thì đùng một cái nó khựng lại. Nguyên nhân tại đâu ?
Nhà nước thì gọi giai đoạn này là “sửa sai”. Nói đến sửa sai thì tất nhiên có sai lầm. Có sai lầm không? Đảng thì không thể sai lầm được. Nhưng Đảng đã khéo dự phòng, chọn “con dê gánh tội” đó là ông Trường Chinh. Ông là nhân vật bí ẩn, trước nay có ra trước công chúng bao giờ? Ai biết mặt ông, mà chỉ biết tên. Tha hồ mà đổ tội cho ông. Ông chẳng sao cả, vì ông đúng như một nhân vật “vô hình vô tượng”.
Sai ở chỗ nào? “Nhất Đội nhì Trời”. Mọi khi đúng sai, tốt xấu là do ông Trời phân định. Bây giờ Đội ở trên cả ông Trời, thì Đội còn có khả năng phân định giỏi hơn ông Trời chứ?
Có một cái sức bí nhiệm không ai lường được, như những cơn sóng ngầm trong lòng quần chúng, làm vỡ đê điều lúc nào không biết. Nó như thanh gươm hai lưỡi, chém người khác, rồi lại quay lại chém người sử dụng nó, một cách bất ngờ. Bởi đó mà có những nhà độc tài, những nhà cầm quyền hét ra lửa, bị quật ngã lúc nào không biết.
Phong trào cải cách đang quay mũi dùi căm thù vào địch thù của giai cấp vô sản, thì không hiểu tại sao mũi dùi căm thù lại quay trở lại chĩa vào những người đang lái nó. Những anh Đội nhất Trời nhì hôm nào còn dương oai tác quái, hùng hổ hơn Trời. Con Trời mà miệng thét ra lửa, thế mà nay bỗng dưng biến đâu mất, như những bóng ma không ai còn trông thấy, những anh cốt cán hôm nào mặt còn rắn như đanh, tay cứng như sắt, nay cũng nhũn như con chi chi. Sức mạnh nào đã làm thay đổi đến thế?
Đó chỉ là quy luật tự nhiên: ác giả ác báo. Nhưng nhà nước đã đưa ra phương thế để chữa cháy: Chính sách “sửa sai”, đó là gáo nước lạnh đổ vào nồi nước sôi. Họ khiêm tốn nhận có sai thật!
Đây là những sai lầm: một số người đưa lên địa chủ một cách vô lý, phải hạ thành phần cho họ. Một số khác bị tịch thu nhà cửa bừa bãi, rồi chia cho người khác, phải trả lại như cũ, đại loại sửa sai là thế.
Nhưng các trường hợp sai sót con số chẳng là bao đối với những đảo lộn long trời lở đất và những cái sửa lại đó không đáng kể đối với một xã hội đã bị thương tổn đến gốc rễ.
Nhưng các lỗi lầm, theo thái độ quần chúng, xem ra không phải là về việc nhận định không đúng về ai là địa chủ, hoặc tịch thu nhầm về ruộng đất. Những sai lầm phải được xem xét theo thái độ hờn ghét của quần chúng chĩa mũi dùi vào ai.
Không hiểu tại sao khi vừa nghe nói có việc sửa sai, thì bọn cán bộ cải cách biến đâu hết. Họ là những ân nhân của người không có ruộng cầy, và những người này phải biết ơn những kẻ đã đem lại ruộng cầy cho mình, và đáng lẽ phải có một cuộc đại liên hoan, mừng cải cách ruộng đất thành công mới phải chứ?
.
Một số kinh nghiệm riêng tư về cải cách
Tối như đêm 30 Tết. Kẻ trộm cũng rình mò tối hôm đó, hơn các đêm khác. Trong dân gian cứ lưu truyền thế. Tất tả suốt ngày, đêm đến giấc ngủ đang ngon thì bỗng có tiếng gọi cổng nhà xứ. Công an gọi tôi cấp tốc ra đồn. Có việc gì mà khẩn cấp thế, mắt còn đang cay xè, tôi bước theo anh công an. Đi thế này, trong đêm tối thường chỉ là bị bắt và điệu đi giam. Thế mà sao lúc này, tôi chẳng có ý nghĩ gì về chuyện đó, nên không thấy bị xao xuyến gì. Một số cán bộ ngồi đó cho biết, Toà Giám Mục Hà Nội vừa cho ra một Thư Chung phản động.
Thư Chung Đức Cha Khuê vừa viết là về đề tài Tình Yêu. Họ giải thích đó là bức thư chống cải cách ruộng đất, đặc biệt là sự tha thứ cho thù địch và như thế là tha thứ cho địa chủ, bọn phản động, cường hào ác bá.
Tình Yêu, yêu mọi người, cả kẻ thù nghịch, đó là luật căn bản của đạo Phúc Âm. Cuộc tranh luận nổ ra ngay ban đêm. Giữa một bên là cha chính Nhân và tôi và bên kia là cán bộ của Uỷ Ban. Không thể và không dám bắt chúng tôi bỏ đi lề luật căn bản đó về đạo. Họ chỉ đòi chúng tôi là không được đọc thư đó, và nộp cho họ các bức thư. Chúng tôi không nộp.
…
Những chuyện có vẻ trẻ con đó mà hậu quả thì rất nghiêm trọng, chắc chắn đã diễn ra trên khắp miền Bắc. Đó là chính sách cải cách ruộng đất, đâu đâu cũng phải thực hành theo cùng một cung cách như nhau. Anh Đội nào, địa phương nào mà dám làm khác, và con số những người bị vu khống oan ức như thế, phải lên đến hàng triệu.
Người trần gian mà làm ông tổ của nói dối, vu khống là nhà đại văn hào Pháp (Voltaire), đã đưa ra một khẩu hiệu: “Bạn cứ nói dối, nói dối khoẻ hơn nữa đi, thế nào cũng còn cái gì!”. Phải, thế nào cũng còn cái gì!
Quần chúng phẫn nộ trước sự gian dối độc ác. Khi việc cải cách phải sửa sai, họ đi tìm những Đội mà rạch mép, những cái mồm mép đã phun ra bao là dối trá, vu khống. Cũng may mà chỉ tìm ra được số ít, vì không biết họ từ đâu mà đến, để gieo rắc bao tai họa cho thôn làng. Nhưng mấy tên bị rạch mép cũng đủ làm im đi những môi mép đã phun ra bao nọc độc chết chóc.
.
Toà án nhân dân và những án tử hình
Đội chỉ huấn luyện, chỉ bảo, thúc đẩy nhân dân. Đội bảo sao, án tội thế nào, nhân dân làm thế, thường là quá sợ hãi mà làm. Có làm theo chỉ là “bị” phát động, quá sợ hãi mà làm theo. Mọi việc đều do hình thức nhân dân thi hành. Đặc biệt có Toà án nhân dân, hằng ngày nhóm họp để xét xử những “tội phạm” đã bị đấu tố nhiều hoặc lên án.
Toà án nhân dân thành phần là các bần cố nông, một chữ không biết mà đứng làm quan toà, làm thẩm phán. Tôi biết một bà thẩm phán ở xứ Phú ốc, khi tôi lên làm lễ, cũng ra chào bà. Nhà bà ở gần ngay đường vào nhà thờ, toà án có khi họp phiên toà ngay nhà bà, chật chội phải chui rúc. Bà trạc gần 70, có cô con gái tiến bộ, lấy ông chủ tịch thôn ngoại giáo. Bà thật hiền lành, đạo đức, chữ nghĩa không biết, không biết ăn nói nữa. Tôi gặp bà, bà lễ phép chào tôi và chỉ cười, đúng là bà lão nhà quê, thế mà quyền sinh sát ở trong tay bà.
…
Có người làm việc cho nhà nước, cha mẹ anh em cũng vẫn bị quy tội như thường. Ông Chuân có con làm cán bộ, em làm hiệu trưởng trường Lục Quân, những người này hình như sợ liên quan, không dám thăm hỏi anh chị em gì cả. Chỉ có đám trẻ, gặp ông ở đường làng, ông để râu, đám trẻ đến giật râu ông và bảo: “Chào ông bà nông dân đi”. Ông Chuân cũng phải khoanh tay chào lũ trẻ: “Con chào Ông Bà nông dân ạ”. Các địa chủ khi gặp bất cứ người già hay trẻ, phải xưng hô là “con”, và thưa chào “ông” hay “bà nông dân”.
Như thế là uy thế của địa chủ đã bị hạ trong hội nghị, trong quần chúng. Cả cái tiếng địa chủ cũng do tuyên truyền, trở nên cái gì ác quái, ghê gớm, xấu xa trong đầu óc quần chúng. Phải công nhận cái tài nhồi sọ của Cộng sản.
Cùng bị hại với những người bị quy là địa chủ, còn có những người khác phải mang danh từ tội ác còn nặng nề hơn; đó là “bọn cường hào ác bá, bọn ác ôn”. Những người này là ai? Thường là những người làm việc dưới các chế độ khác như thời Pháp cai trị, hoặc thời quốc gia. Họ làm quan, là viên chức, như Chánh phó tổng, Chánh phó hương hội, Lý trưởng, Thơ ký, Thủ quỹ của hương hội. Thậm chí cả những người nào có uy tín trong quần chúng, những người nào có vẻ đạo mạo….
Quy thành địa chủ, thì phải theo tiêu chuẩn nào đó, như người đó có một số mẫu ruộng, hoặc nhà ngói gốc mít, ao cả ruộng liền, rồi thuê người làm hơn là làm lấy, như thế dễ dàng quy vào hạng bóc lột. Như vậy, việc quy lên địa chủ ở nông thôn Việt Nam, bị giới hạn nhiều, vì ít làng có nhiều người có ruộng liền ao cả. Ở Việt Nam, chỉ có người có vài ba mẫu ruộng cũng bị coi là địa chủ; trong khi ở các nước khác, địa chủ là người có hàng trăm, nghìn mẫu ruộng.
Nhưng những người có uy tín, có thế lực, thậm chí được nhiều kính nể, thì tương đối nhiều hơn là con số địa chủ. Thậm chí ở xã hội ta, một xã hội có thể coi là phong kiến, những người làm việc hương lý có những hành vi tàn bạo, bất công, ức hiếp, hà lạm… con số không phải là nhỏ. Vả lại dân ta hiền lành, nên có nơi có người chẳng giữ chức vụ gì, nhưng vẫn có thể xưng hùng xưng bá, bắt nạt người khác với những hành vi tàn bạo, đốt nhà cướp của, cả làng khiếp sợ, không ai dám nho nhoe.
Tất cả những người có uy tín, hương chức có hành vi tàn ác, hoặc chỉ làm việc cho chế độ cũ (viên chức, lính tráng) đều bị quy là cường hào ác bá, ác ôn, và những nhân vật loại này còn nặng tội hơn là địa chủ, và đáng bị tiêu diệt hơn.
Thế còn những viên chức trong đạo thì sao? Cải cách ruộng đất làm ra vẻ rất tôn trọng tự do tín ngưỡng. Nhà thờ nhà xứ được bảo đảm, ngoài ra đều phải theo luật cải cách ruộng đất. Chẳng hạn nhà xứ nào có nhiều ruộng đất, cha xứ cũng phải đấu tố, xỉ vả như các người khác.
Tôi chỉ thấy có cha Thính ở Vĩnh Đà không bị đấu tố, vì ngài không dính dáng đến ruộng nương, không ăn nhờ vào ai, ngài còn tuyên bố: “Mỗi ngày tôi chỉ vài chiếc bánh đa và nước lã là đủ”.
Nhưng cha Thu, thư ký cho Đức Cha Tĩnh giáo phận Bùi Chu bị đổ cho cái tội “khoan đê”. Ngài cho lời vu khống đó là quá trẻ con, ai lại dùng chiếc khoan gỗ của thợ mộc mà khoan cho vỡ đê được. Thấy quá lố bịch ngài nhận cho xong. Thế mà thành tội thật và ngài bị đem ra xử bắn vì tội khoan đê. (Cũng có người bị khép tội khoan đê như thế, người đó phải cầm cái khoan của thợ mộc, khoan vào đê, cán bộ chụp hình, làm chứng cớ tội phạm).
Hình phạt dành cho địa chủ, cường hào gian ác v.v… do Toà án nhân dân lên án. Nói đúng ra là cán bộ cải cách, chứ bà Thẩm Phán tên là Thậm ở Phú ốc nói một câu cũng không ra câu, thì lên án làm sao?
Án phạt trước hết là tịch thu nhà cửa ruộng đất. Người đó bị đuổi ra khỏi nhà, đi ở đâu thì đi. Họ dựng một cái lều ở đất hoang nào đó để độ thân, còn nhà cửa thì được chia cho ông bà nông dân, đặc biệt là bần cố nông loại nhất, nhà to thì chia cho hai ba người. Bên lương, họ không có 10 điều răn Chúa, họ dễ dàng đến ở. Trước đây ở các lều, các nhà lụp xụp, nay được mấy gian nhà ngói, làm gì mà không nhận.
Nhưng bà con Công giáo thì khác, cũng có người ép tình nhận, đến ở ít lâu, sau này có dịp trả lại. Có người không nhận, ít người vui vẻ nhận.
Khi hai ba người được một cái nhà, họ thường chia nhau, rỡ đi bán. Bán đi tiêu hết tiền, lại trở về cảnh sống nơi túp lều. Ông trùm Tứ, xứ Ba Trại có căn nhà lá ba gian, được chia cho hai người, lập tức họ chia đôi mỗi người được gian rưỡi, họ lấy cưa, cưa đôi gian giữa. Không biết rỡ về làm được gì, hoạ chăng dựng được túp lều?
Chú tôi ở Kim Lâm, tuy hai ông bà đã chết, hoặc đi Nam, có cô con gái lấy chồng cán bộ, anh Hân, cũng bị quy là địa chủ, nhà cửa bị tịch thu chia cho hai người Công giáo, hai người chỉ lẫm lờ nhận, nhưng không dám ở bao giờ. Em tôi vẫn giữ mãi cho đến ngày không ở thì dâng cho họ giáo để làm nhà phòng. Cảnh nhà cửa bị tịch thu nó tương tự như thế.
Còn ao vườn ruộng đất? Dĩ nhiên là được đem chia cho nông dân hết, theo nguyên tắc chung. Đất đai là công thổ, tất cả là của nhà nước. Do đó mà ao vườn đất đai nhà thờ, nhà xứ, cũng được đem ra chia hết.
Còn bản thân những thành phần có tội với nhân dân thì sao? Từ khi cải cách được phát động, tối nào cũng họp bà con nông dân Đội cải cách nhờ chính sách “ba cùng” đã nắm bắt tình hình các hộ, đã chia ra từng thành phần: địa chủ, hay loại người tương tự, phú nông, trung nông, bần nông, cố nông. Chỉ có phú nông trở xuống mới được đi họp, và dĩ nhiên bần cố nông là nòng cốt, là lãnh đạo.
Ai mà không được đi họp, lo ngay ngáy. Số phận từ đây đã được định đoạt, thành phần có tội, đáng bị loại trừ khỏi xã hội. Thành phần tuy đã được đội ấn định, song để cho có vẻ “nhân dân” sẽ là các cuộc họp của nhân dân, bị vạch mặt rồi định đoạt số phận.
Có hai vòng họp, vòng họp thứ nhất thành phần xấu không được tham dự. Trong vòng họp này, bà con nông dân vạch mặt bọn “địa chủ, cường hào gian ác”. Ai cũng phải phát biểu, nói thật thì ít, bịa đặt vu khống thì nhiều, vừa nói vừa làm ra vẻ căm phẫn, vừa nói vừa xỉa xói.
Sau khi đã cho việc tố cáo là đủ, các cuộc họp chuyển sang vòng hai. Từ đây những người đã bị các cuộc hội họp tố, nay họ được triệu tập đến họp, để các thành viên khác đấu. Những cuộc đấu tố này chẳng khác gì những phiên toà lên án tội nhân. Những người bị tố trong các buổi họp trước đây, nay đã thành tội nhân mà nhân dân sẽ lên án.
Tội nhân bị tố nặng, như có nợ máu với nhân dân, có thể bị trói tay, quỳ hay ngồi trên đất ở giữa hội nghị. Những người đấu tố lần lượt kể tội. Phạm nhân bị cưỡng bức đó, chỉ còn một việc cúi đầu nhận tội. Nếu tỏ dấu thanh minh, sẽ bị coi là ngoan cố, tội càng nặng hơn, không ai được phép bào chữa. Chỉ tỏ vẻ thương cảm mà không tỏ vẻ phẫn uất, cũng rất nguy hiểm, có thể bị coi là liên quan, và chịu vạ lây. Con cái cũng không được tỏ bầy cảm tình đối với cha mẹ, còn phải đấu tố cha mẹ là khác, để may ra được ra khỏi thành phần.
Không phải người bị đấu tố nào cũng phải xử bắn, họ bị phân loại. Trên hết là địa chủ gian ác, bóc lột, có nhiều ruộng, lại bị tố cáo có những hành vi bóc lột, đánh đập người ở. Ở bên Công giáo hạng này thì có ít, vì phần lớn những người giầu có, nhiều ruộng nhiều thóc, như ở Sơn Miêng, nhà giầu ở xứ Tâng (An Phú) Kẻ Vác… Họ hiểu thế nào là Cộng sản, đã mau chạy xa bay vào Nam từ năm 1954 rồi, một số đồng bào bên lương, đặc biệt là ở thành phố, cũng đã hiểu và cũng cao chạy xa bay.
Nhưng số lớn người bị bắn thường là những người bị quy cho là cường hào gian ác, ác bá, ác ôn… Đây là những chức việc trong xã trong huyện, hoặc là những người đã tham gia những đảng phái khác, như Quốc Dân Đảng, Đại Việt… Cả những người trong Đảng Cộng Sản bị nghi là tả khuynh, hữu khuynh, hay là những người có tư tưởng theo đường lối xét lại. Cả những người trung thành với Đảng, mà cá nhân có uy tín, nhưng lại có vẻ không trung thành với lãnh tụ, nói khác đi, không ăn cánh với cấp trên. Tất cả đều bị coi là nguy hiểm và cần tiêu diệt ngay từ trứng nước.
Tôi biết có hai người bị tội bắn: ở Báo Đáp, một người giầu có, xưa đã đi lính cho Pháp. Một người khác ở quê tôi, làm Chánh tổng lâu năm. Số người bị bắn, không mấy làng không có, có làng bị đến 2, 3 người, và con số ở miền Bắc lên tới hàng vạn, hàng vạn người.
Những người bị tử hình hầu hết là bị bắn, hoặc bị bắn ở cánh đồng, hoặc bị treo lên cành cây. Cuộc xử bắn diễn ra trước hàng vạn người, để có tính cách răn đe. “Sát nhất nhân, vạn nhân cụ”. Và đúng là thế, sự sợ hãi lên tới cực điểm, tựa như có đám mây đen bao phủ toàn dân. Phải triệt để khai thác tình trạng sợ hãi này. “Không được để lọt một thằng nào”. Hiệu lệnh là thế! “Thà giết nhầm 10 thằng còn hơn để lọt một thằng”.
Các địa chủ trung bình thường bị giam. Cùng với hàng địa chủ này một số lớn cũng bị giam, đó là những người đã cộng tác với chế độ ngày trước, hoặc đã đi lính và đã có cấp bậc, hoặc về hành chính, những trí thức xem ra không thiện cảm với chế độ mới, những người đảm nhiệm công việc trong tôn giáo mà có uy tín: như Chánh Trương, Trùm Trưởng, Quản giáo. Có cả nhưng Đảng viên Cộng Sản, cả trong Uỷ Ban Nhân Dân bị nghi ngờ là không trung thành.
…
Trong thời gian bị giam, thường là bị cưỡng ép làm giấy thú nhận đã có những hành vi phá hoại: như bỏ trứng sâu vào lúa, phá hoại đê điều, đầu độc người nọ người kia, và ai cũng phải làm giấy nhận tội hết. Thời gian bị giam thường là năm, bảy tháng. Có nhiều người bị ngược đãi quá, hoặc bị bệnh nặng thì được tha về, và chỉ ít lâu sau thì chết.
Các địa chủ không có tội gì, ngoài việc có máu mặt hơn trong làng xóm, hoặc được người ta kính trọng hơn, có uy tín hơn một chút, thì chỉ bị phân biệt đối xử. Không còn quyền công dân, như là bầu cử, hội họp, không được làm chức vụ gì trong xã hội, cả trong tôn giáo. Nếu là người Công giáo, có đến nhà thờ cũng phải ngồi dưới, không được ngồi lên ghế trên. Con cái không được đi học, trừ đứa nào tiến bộ, cố gắng thoát ly ra khỏi giai cấp, bằng cách đứng với bần cố nông, hăng hái đấu tố giai cấp của bố mẹ, đi đến cả đấu tố cha mẹ, thì cũng được hưởng quyền lợi đôi chút của xã hội. Chứ không bao giờ tẩy xoá được cái danh hiệu “con địa chủ”, danh hiệu cha truyền con nối. Không được cả đến cái “vinh dự” đi bộ đội, vì còn bị nghi là không trung thành, bởi đã mang cái dòng máu đối nghịch truyền đời của giai cấp.
Có những cán bộ xuất thân từ giai cấp địa chủ, tư sản, từ đầu cách mạng, đã hoàn toàn thoát ly và đã có thể giữ chức nọ kia, có thể lên chức. Nhưng khi cách mạng thành công, họ không được trọng dụng lắm, không lên chức nào, mà còn bị thất sủng là khác. Thường những Đảng viên cũng bị đưa ra đấu tố.
Những cán bộ như thế, trong thời gian hoạt động, nhất là trong thời gian cải cách, không được, nói đúng ra, không dám có một liên hệ gì đến gia đình. Có thể nói, cả đến tư tưởng cũng phải dứt khoát! Nếu không sẽ bị liệt vào hạng liên quan và bị đem ra xử lý. Không bị kết tội thì cũng bị hạ tầng công tác.
Tất cả những lãnh tụ, kể cả lãnh tụ vĩ đại nhất cũng đều xuất thân từ giai cấp địa chủ, hoặc tư sản. Ông Hồ Chí Minh, ông Trường Chinh (Đặng Xuân Khu), ba anh em ông Lê Đức Thọ lý thuyết gia của Đảng, ông Võ Nguyên Giáp, ông Phạm Văn Đồng… đều là con cái địa chủ, hoặc là tư sản. Các ông ấy là những người sáng lập, cha đẻ ra Chủ nghĩa vô sản Việt Nam, thì các ông ấy đứng trên tất cả, ai làm gì được các ông! Các ông đặt ra cái thòng lọng, lại để cho cái thòng lọng thắt cổ mình làm sao?
Giả sử các ông ấy là nông dân thường, con nhà bần cố nông, thì làm gì có cơ hội mà ăn học. Đàng này, hầu hết các ông là học trò của trường Thành Chung (Carreau) Nam Định, trường Bưởi Hà Nội… Phải là địa chủ giầu có mới đủ tiền gửi con cái lên các trường đó, có ông còn được thực dân Pháp cho đi ăn học.
Xét cho cùng, thì giới bần cố nông phải biết ơn giới địa chủ, tư sản, đã phát động phong trào cải cách để họ nâng lên vai trò lãnh đạo.
Còn các nhà cải cách phát động phong trào, tô điểm mỹ miều cho các danh từ “thoát ly” mà họ mắc vào, chứ thực ra họ là những người “phản giai cấp”. Và công luận không bao giờ cho phép xoá đi cái danh hiệu con nhà “địa chủ”, mà họ đã dầy công bắt người ta bôi nhọ bằng đủ cái xấu. Gậy ông lại đập lưng ông là thế.
.
Cải cách ruộng đất
Ở những nước tư bản, có những chủ nhân, những xí nghiệp, những nhà máy, có giới chủ với người thợ, thì cuộc đấu tranh giữa thợ thuyền và chủ nhân phải đánh đổ giới chủ, để có một lớp người vô sản, để biến xã hội tư bản thành xã hội vô sản.
Ở những nước mà nguồn kinh tế chính là ruộng đất, thì nơi đó giới thống trị là người có nhiều ruộng đất, là những địa chủ, và giới vô sản là những bần cố nông không ruộng đất. Cuộc đấu tranh của vô sản ở đây là nông dân nghèo vùng lên đòi lấy ruộng đất ở các địa chủ, để giới vô sản sẽ làm chủ nhân ông. Đó là tư tưởng chỉ đạo việc cải cách ruộng đất. Cuộc cải cách ruộng đất ở các nước nông nghiệp là phương tiện chính để vô sản hoá xã hội.
Ở Trung Quốc, sau cuộc Đảng Cộng Sản nắm chính quyền vào năm 1949. Liền sau đó là cuộc cải cách ruộng đất long trời lở đất làm biến đổi hẳn bộ mặt Trung Quốc, một nước vô sản vĩ đại sau Liên Xô. Liên Xô là thành trì của thế giới, đối với Việt Nam là anh cả, mà anh hai là Trung Quốc.
1- Cho nên sau cuộc cải cách ruộng đất ở Trung Quốc. Người Cộng sản Việt Nam cũng lăm le theo gót. Phải nói: Cộng sản Trung Quốc đến sau Cộng sản Việt Nam trong việc cướp chính quyền, song Cộng sản Việt Nam từ đây mọi cái nhất nhất phải theo Cộng sản Trung Quốc. Có nhiều lý do: Hầu hết các lãnh tụ Cộng sản Việt Nam đều phát xuất từ Trung Quốc, hoặc chịu ảnh hưởng Trung Quốc hơn là Liên Xô. Một là vì Việt Nam ở sát Trung Quốc, việc giao lưu dễ dàng. Hai là tuy cách mạng Việt Nam giành được độc lập trước Trung Quốc, song nhờ Trung Quốc mà giữ vững được vị trí, đặc biệt là nhờ chiến thắng Điện Biên Phủ tháng 5-1954 mà thắng lợi của Việt Nam nếu không nhờ Trung Quốc tất cả thì cũng là phần lớn.
2- Cộng sản Trung Quốc một khi nắm chính quyền là nắm toàn bộ, còn ở Việt Nam, nền độc lập chỉ có trên nguyên tắc, Cộng sản còn phải đánh nhau với Pháp nên chưa dám lộ diện là hoàn toàn. Chỉ mới là Đảng Lao Động, nhà nước dân chủ cộng hoà.
3- Cuộc cải cách ruộng đất nó dữ dội quá, giết nhiều người quá, đã làm hoen ố bộ mặt Cộng sản luôn tuyên bố vì nước vì dân, vì độc lập; với bao là chính nghĩa xuông, nên Cộng sản Việt Nam có làm cải cách ruộng đất cũng là một cách miễn cưỡng, không thể đừng, và một cách dè dặt, chứ không cực đoan, triệt để như Trung Quốc. Cho nên họ phải đưa Ông Trường Chinh (Đặng Xuân Khu, người Hành Thiện, Xuân Trường, Nam Định). Tuy là Tổng bí thư Đảng, là lý thuyết gia của Đảng, nhưng ít người biết đến tên tuổi ông, đến mặt mũi ông. Ông được trao cho người thừa hành kế hoạch cải cách ruộng đất, còn ông Hồ Chí Minh “giả cách đứng ngoài”. Kế hoạch đó cũng đạt mục đích phần nào, vì sau này tai tiếng đều trút trên đầu ông Trường Chinh, mà “Bác Hồ” là “nhân từ” chỉ bị liên hệ chút ít. Nhưng làm sao mà che mắt được dư luận nhân dân. Ông Hồ là lãnh tụ tối cao, mà ông Trường Chinh chỉ là tay chân, làm sao công việc long trời lở đất đó lại qua mắt được lãnh tụ tối cao. Sau này mới có chính sách lãnh đạo tập thể, chứ lúc đó mọi cái chỉ do mấy ông chóp bu định đoạt. Dù cá nhân, dù tập thể, thì ai là lãnh tụ phải chịu trách nhiệm chính. Tuy nhiên mặt ông Trường Chinh không bao giờ được rửa sạch.
Mặc dù sau này ông làm Chủ tịch Quốc Hội, ông cũng không bao giờ vươn lên khuôn mặt kính mến trước nhân dân.
4- Do chính sách “chiếu cố” miền Nam, Cộng sản Việt Nam ở miền Bắc chưa dám lộ ra bộ mặt là quá cứng rắn, là tàn ác đi tới mọi rợ.
Dù sao, cuộc cải cách ruộng đất đã được thực hiện. Sách “Biên niên sử Việt Nam” không đề cập gì đến Luật cải cách được ban bố ngày nào, thi hành ngày nào, mà chỉ nói đến “Tháng 7 năm 1956: Hoàn thành cải cách ruộng đất ở miền Bắc”. Ruộng đất đã về tay nông dân, 10 triệu nông dân lao động đã làm chủ ruộng đất, làm chủ nông thôn.
Nói đến “Hoàn thành cải cách ruộng đất ở miền Bắc”. Thực ra đã có cuộc cải cách ở miền Trung, trong các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ Tĩnh, vào lúc giữa quân đội Pháp và Việt Minh đang gay gắt ở miền Bắc, năm 1951-1952. Không những giật lấy ruộng đất ở tay địa chủ, mà hiểu là dập tắt mọi mầm mống có thể nổi lên từ phía quốc gia, để đi với Pháp chống lại Việt Minh (Cộng sản). Ở miền Bắc nghe thấy nói đến cải cách ruộng đất ở Khu Tư là rùng rợn, đến khiếp sợ cả người Khu Tư nữa.
Nói đến hoàn thành, “hoàn thành thế nào?” Đó là 10 triệu người nông dân nghèo không ruộng đất, nay có ruộng cầy. Cái kết quả đẹp đẽ quá! Nhưng để tới kết quả đó, phải có những phương tiện nào?
Người Cộng sản Việt Nam học được kinh nghiệm của các anh Liên Xô, Trung Quốc, nên công cuộc được tổ chức rất chu đáo cặn kẽ, từ lúc phát động đến hoàn thành.
Tuy nhiên, người Việt Nam vốn có lòng từ tâm, nên những cách tàn bạo quá đỗi ở Liên Xô hay Trung Quốc, không được bắt chước đầy đủ.
Đầu hết là cái khẩu hiệu: “Người cầy có ruộng” quá hợp tình hợp lý đi thôi. Cho được thế, đem ruộng đất ở tay những người có nhiều quá mà san sẻ cho những người không có tí nào! Đó cũng là lẽ công bằng. Nhưng làm sao để vui lòng san sẻ. Giáo Hội có luật công bằng, xã hội dựa trên bác ái. Cộng sản có phương châm đấu tranh dựa trên căm thù. Làm thế nào để khơi dậy căm thù, hay nói chung, để thành cán bộ cải cách, là đội cải cách?
Những trường được xây dựng để đào tạo đội cải cách. Tôi biết một trường như thế ở Phủ Lý. Tôi đã có dịp vào đó. Nghỉ ở đó trong một buổi họp nọ. Trường gồm độ vài chục căn nhà, mái tranh vách đất, có vẻ tạm thời, nằm ở phía đông nhà thờ Phủ Lý. Thị xãlúc này đã bị phá huỷ theo sách lược tiêu thổ kháng chiến hồi năm 1946-1947; không còn một ngôi nhà, chỉ trừ nhà thờ.
Người ta dạy gì trong trường? Tôi không rõ, tất cả là bí mật. Khi thấy công việc đội cải cách làm, thì biết họ học gì, được huấn luyện thế nào?
Học xong họ được phân đi các xã, các thôn, cũng hầu như bí mật. Người tỉnh này được phái đi các tỉnh khác để không ai biết họ, cũng như họ không biết ai trong địa phương, để hoàn toàn tránh những liên lạc, hoặc cư xử riêng tư hay nể nang gì.
Mỗi xã được phân phối dăm bẩy đội viên hoặc hơn kém tuỳ theo xã quan trọng thế nào. Đội về đâu ở đâu không ai biết. Họ sống theo chế độ “ba cùng”: cùng ăn, cùng ở, cùng làm. Nghĩa là họ đến một nhà nào đó, thường là một bần cố nông, người này ở một cái lều, đồng chí đội cũng chui rúc vào lều đó, nhà đó ăn cháo, ăn cơm độn thì đội cũng ăn cháo, ăn cơm độn như họ, bần cố nông đó đi cầy, đi cuốc thuê, thì đội cũng cùng làm y hệt. Người đội cải cách bắt rễ ở nhà nào, thì sống trong những điều kiện của nhà đó, không có chi khác biệt. Bởi đó người ta cũng không để ý tới, đã mấy ai nghe nói đến cải cách, đến đội cải cách mà theo dõi. Còn người được đội đến nhà, có thể lấy đó làm vinh dự, đàng khác đội lại khéo léo, chấp nhận ăn chung, sống chung với nhau như thế, khách chủ cùng cánh, dễ thông cảm và thân mật.
Do cách sống gần gũi thân mật với nhau, nhìn nhau mỗi ngày 24 tiếng trên 24. Người đội khéo léo tỉ tê, khai thác được mọi chuyện của người bà con nông dân chất phác và dốt nát đó. Bác nông dân đó kể lể về cảnh sống khổ sở của mình làm sao? Lam lũ làm thân trâu ngựa thế nào? Bị hành hạ làm sao? Bị áp bức và bị bóc lột đến thế nào? Các anh địa chủ, các tên cường hào kia ăn ở làm sao? Bóc lột áp bức thế nào? Thế là lửa căm thù được nhóm lên giữa những giai cấp khác nhau, để một ngày kia sẽ bùng lên.
Sau khi mối hận thù giữa các giai cấp chín muồi, thì phong trào cải cách được phát động rầm rộ. Quả nhiên, những ngày hội của nông dân bắt đầu. Từng đoàn thiếu nhi đeo trống ếch đi khắp ngõ ngách xóm làng, trống tùng tùng tùng tùng tùng bắt nhịp với những tiếng hô đả đảo, đả đảo… địa chủ … đả đảo cường hào, tiêu diệt ác ôn. Một tên xướng lên, cả đoàn lập lại hai lần. Bầu sát khí nổi lên bừng bừng. Bừng bừng một cách giả tạo, miễn cưỡng, chứ từ xưa tới nay dân làng vẫn sống cảnh thanh bình đầm ấm, nhất là vào ngày tết, ngày lễ, ngày hội, anh em bà con có đi làm ăn xa đến đâu, cũng nhớ đến nơi chôn rau cắt rốn trở về đoàn tụ gia đình; cái luỹ tre xanh bao quanh làng, biểu tượng một đời sống tĩnh mịch, êm ấm.
Tuy trong một thời gian chiến tranh, bom đạn có khuấy động đời sống dân làng. Nhưng đã qua đi cái thời chiến tranh loạn lạc… Nhưng nay, khắp nơi ngày đêm ra rả những tiếng ca ngợi hoà bình. Hoà bình trong nước, hoà bình trên thế giới. Xem ra chủ nghĩa xã hội độc quyền cả hoà bình, còn chiến tranh là của tư bản. Các hạng người vong bản, họ nhập cảng một cái chủ nghĩa ngoại lai ở đâu ấy, cũng hô hào xây dựng nên cảnh bồng lai…. Ngược với cảnh hoà bình êm đềm, để đưa xóm làng vào một cuộc cách mạng long trời lở đất, Việt Nam chưa hề thấy bao giờ!
Chiều chiều sau việc đồng áng, bà con về cầu ao rửa chân tay, cầy cuốc, chuẩn bị cơm tối, tiếng trống ếch đã rộn rã trên các đường ngõ trong làng, tiếng hô loa nổi lên mời bà con đi họp, họ chờ đầy đủ không thiếu một ai. Đi họp đầy đủ, chứ ai mà dám ở nhà. Có thể đầu làng một đám lửa bốc lên ở một đống rơm, một chuồng lợn. Người ta có ý đốt và đổ cho bọn địch không chịu đi họp đã gây nên. Chỗ khác, những viên đá, viên gạch ném ra đường ngăn cản đội, hoặc bà con đi họp, là do bọn địch không chịu đi họp gây nên.
Vào phòng họp, đội dõng dạc tuyên bố: “Bà con nông dân đề cao cảnh giác, vì địch nó ngồi ở đằng sau ta…”. Người ngồi sau run sợ…! Một lúc nữa, đội lại nói: “Bà con cảnh giác, địch nó ngồi ngay trước mặt ta”. Ngồi trước ngồi sau đều là địch cả. Không còn biết chọn chỗ nào nên ngồi? Sợ sệt và sợ sệt…!
Ai nấy ngồi yên chỗ, bắt đầu cuộc “đấu tố”. Tố cáo tội ác giai cấp bóc lột, đấu tranh đánh đổ giai cấp bóc lột đó. Mọi người bắt đầu cuộc kể khổ, để tố cáo tội ác của bọn địa chủ cường hào ác bá. Những tội ác được bịa đặt ra nhiều hơn và nặng nề hơn sự thật.
“Tôi vay hắn ta mấy bát gạo, hắn ta bắt tôi viết văn tự thế bằng một sào ruộng. Tôi không có gì trả, thế là hắn ăn không sào ruộng của tôi. Và cứ mấy lần vay như vậy, rồi không có gì trả, thế là không còn một mẩu đất để cắm dùi”.
“Tôi cấy tô cho nó, chẳng may trời để mất mùa, vì bão lụt, nó cứ thu tô như chẳng có tai hoạ gì xẩy ra. Chẳng có gì mà nộp, nó cho người đến tháo bộ cửa, dỡ mấy gian nhà tôi….”
“Tôi nghèo khổ, đi làm thuê cho nhà nó, ăn đói, ăn khát, nó còn đánh đập, tiền công không trả, nhà nó tìm cách đuổi tôi đi để quỵt công….”
Và nhiều thứ tội khác, chung quy chỉ là tội tàn bạo, bóc lột, đổ trên những người bị quy là địa chủ, hay ác ôn, cường hào ác bá. Có thể là tội cá biệt nhưng nay là tội chung. ai là đối tượng thì được khoác cho những tội đó. Người nông dân thật thà chất phác, mấy ai nghĩ ra được cách tố cáo, tất cả đã được dậy bảo, được Đội “mớm” cho trước.
Thế rồi đấu, đấu tranh với địa chủ, thì phải có khí thế, chưa quen thì phải tập. Chưa có ai xuất hiện để mà đấu, thì có thể dùng cái cột nhà thay thế. Bà con và nhất là các phụ nữ. Giơ tay xỉa xói vào cái cột nhà: “Mày đã cướp của tao, mày đã đốt nhà tao, mày đã đánh đập tao thật tàn bạo, tao khó nhọc làm giầu cho mày, mà mày cho tao ăn đói ăn khát…”. Tất cả phải được nhuần nhuyễn, từ cử chỉ đến lời nói, để khi gặp “người thật” không ngượng ngùng ái ngại.
Đến nỗi mà một người phụ nữ đứng tuổi, rất thương người cha già chị săn sóc hằng ngày. Chị nói với bố: “Ông có biết tôi là ai không?”. Người cha ngậm ngùi trước nhìn đứa con dứt ruột của mình và nói: “Thưa bà, con là người đẻ ra bà ạ”. Lời thưa não nùng thảm thương, nhưng phải hỏi cái sức ma quỉ nào đó đã thúc đẩy người con chất vấn người bố như thế? Cứ đó mà luận ra những người khởi xướng!
Một bầu khí sợ hãi lan tràn khắp nơi. Không hiểu tự đâu, đội cải cách có cái tài làm cho mọi người sợ thế. Tôi cho là có ma quỉ đứng đằng sau để giật dây. Không ai dám đến nhà ai, không ai dám gặp nhau, nói chuyện với nhau. Gặp gỡ hay chuyện trò có thể một lúc nào đó, bị coi là âm mưu tìm cách phá hoại cải cách. Tội gì, chứ bị cáo là phá hoại, thì chỉ có mà chết. “Nhất Đội, nhì Trời cơ mà”. Để tăng thêm nỗi sợ hãi, chỗ này hay chỗ kia, một đống rơm, một chuồng lợn được đốt lên, và phao tin kẻ địch phá hoại, không chịu đi họp đã gây ra. Như thế, ai còn dám ở nhà nữa? Chỗ khác tung tin, bọn phá hoại nấp trong nhà, chờ Đội đi qua là ném gạch, ném đá. Ai nấy đi họp cho nhanh, kẻo ở nhà dễ “bị phát hiện” là kẻ địch.
Vào buồng họp, Đội nghiêm nghị tuyên bố: “Kẻ địch nó ngồi ngay trước mắt ta”. Những người ngồi trước giật mình! Lúc sau đội lại nói: “Kẻ địch nó ngồi đàng sau chúng ta”. Người ngồi sau thất đảm! Ngồi đâu cũng sợ hãi, không yên. Thế rồi ai cũng phải phát biểu, không có truyện thì bịa truyện, nói dối, vu cáo, ăn không nói có…, là đường lối chính sách.
Đội dùng những phương pháp khủng bố tinh thần, từ Liên Xô, nhất là từ Trung Quốc. Văn hoá, não trạng của người Tàu với người ta dễ đồng dạng, nên ta học được rất nhiều của Tàu, được coi như bậc thày.
Một thời gian nữa sẽ không còn một nhân chứng nào còn sống để trả lại sự thật cho lịch sử. Nghĩ về lịch sử VN bị người ta tàn nhẫn xuyên tạc mà kinh hoàng.
Vẫn có những nhà chép sử âm thầm đó bác Cua, như trang Việt Sử Ký!