Tây Nguyên 2012
Cuối năm 2012 tôi có dịp được trở lại tây nguyên. Tôi thích dùng chữ “trở lại” cho vùng đất mình từng có lần đặt chân. Lần này không đi theo quốc lộ 14 nên mất một dịp đi qua Bình Phước nắng cháy với tiêu, điều, cao su; Đắc Nông, Đắc Lắc với tiết trời se lạnh, hoa quỳ vàng hai bên đường và những vạt rừng thông bị đốn, thiêu cháy nham nhở. Bù lại tôi được ngắm cảnh Phú Yên. Dưới đây là mấy tấm hình chụp vội bên đường.
.
1. Phú Yên
Trên quốc lộ 25 từ Tuy Hòa (Phú Yên) đi Gia Lai: nơi quốc lộ “gặp” thiết lộ.
.
Núi Đá Bia (còn gọi là Thạch Bi Sơn hay Núi Ông) được xem là một nhánh rẽ của dãy Trường Sơn nhô ra biển đông, là ngọn núi cao nhất trong khối núi Đại Lãnh thuộc dãy núi Đèo Cả, nổi tiếng vì tảng đá Bia khổng lồ cao khoảng 80m trên đỉnh núi. Tương truyền vào mùa xuân năm Tân Mão 1471, vua Lê Thánh Tông tiến quân đánh Chiêm Thành. Sau khi thắng trận, nhà vua cho người khắc dòng chữ Chiêm Thành quá thử, binh bại quốc vong/ An Nam quá thử, tướng chu binh chiết (Chiêm Thành qua đây, quân thua nước mất. An Nam qua đây, tướng chết binh tan) lên tảng đá khổng lồ này để ghi lại chiến công và làm cột mốc phân định ranh giới giữa hai nước Đại Việt và Chiêm Thành.
Một mục tiêu ẩn sau vụ án:
Phiên sơ thẩm xử 22 người bị bắt hồi tháng 02/2012 tại khu du lịch sinh thái Núi đá Bia diễn ra ngày 28/01/2013 vừa qua tại tòa án tỉnh Phú Yên. Những người này bị cáo buộc âm mưu lật đổ chính quyền từ một khu du lịch, lật đổ chính quyền với mười mấy kíp nổ đá (!?)
Không…Mà lật đổ chính quyền đâu có cần phải súng đạn, bây giờ lật đổ chính quyền bằng diễn biến hòa bình mà, chứ đâu phải súng đạn.. Thôi vậy nghen, chào …(lời thiếu tướng Phan Văn Hóa- giám đốc công an tỉnh Phú Yên, nguồn: RFA)
.
Chân núi Đá Bia về phía nam là cảng biển Vũng Rô. Vịnh Vũng Rô nằm ngay sát rìa dãy núi Đèo Cả, là ranh giới biển giữa Phú Yên với Khánh Hòa.
Theo báo chí nhà nước (VN Express), dưới danh nghĩa “chuyên gia kỹ thuật”, từ năm 2005 đến nay (06/2012) nhiều người Trung Quốc dựng bè cá lớn với 300 lồng nuôi trên vịnh Vũng Rô, một vị trí trọng yếu của Phú Yên trong phát triển kinh tế lẫn an ninh quốc phòng.
Không biết công an Phú Yên có vào cuộc?
***
2. Gia Lai- Kontum
Phần lớn dân tộc thiểu số ở Gia Lai- Kontum đã đem đất đai của mình cho người khác thuê, hoặc cầm cố giấy chủ quyền đất. Họ bị cuốn hút vào lối sống tiêu thụ của người Kinh: mua sắm ti-vi, xe máy, áo quần đắt tiền… Đó là chưa kể nhiều gia đình do cuộc sống túng quẫn đã phải “nhắm mắt, đưa chân” cầm cố giấy “chủ quyền đất” với lãi suất “cắt cổ”. Người hưởng lợi tất nhiên là… những “con người mới xhcn”.
Một thôn nghèo của người J’rai. Nơi này trước thuộc quận Phú Nhơn, tỉnh Pleiku:
*
Sa Thầy là một huyện thuộc tỉnh Kontum tách ra từ huyện Dakto, theo tài liệu- là nơi có mật độ dân số thấp nhất nước. Phía Tây của Sa Thầy là biên giới Việt Nam- Campuchia.
Dưới đây là một số hình ảnh tại xã Sa Sơn- một xã nghèo thuộc huyện Sa Thầy. Nghèo nhưng vẫn là “thiên đường” (xhcn mà)!
Chị Năm có những chuyến đi thật là đầy ý nghĩa nhân sinh thú vị!
Những tấm ảnh với góc nhìn cuộc sống rất chân thật đơn sơ của chị, thật khác biệt với nhiều người khi du hành, phóng mắt đưa vào tầm ngắm của ống kính…những hào nhoáng!
Bởi, đọc, xem ảnh, ở entry này, cũng như những bài viết và những loạt ảnh ở entries khác về Tây Nguyên mà chị đã post, em như nhìn thấy và cảm nhận được những chuyến đi của chị mang nhiều chiều sâu tình cảm nội tâm sâu sắc, cùng ẩn chứa thật đầy những chia sẻ cảm xúc nhân bản lắm!
Em thật sự thích, và trân trọng góc nhìn rất khác biệt này của chị đấy!
Nó thật sự đọng trong em những ấn tượng cảm xúc về nhân sinh quan hiện nay!
Dạ, thi cử mới tạm xong (qua tết còn 2 môn), và vì có chút việc riêng nên đến 27 Tết em mới về nhà chị à! (Mồng 3 phải trở vào lại)
Tín có chuyện gia đình đột xuất nên đã về mấy hôm nay rồi chị.
Chào, và chúc chị Năm cùng gia đình của chị ăn Tết vui vẻ nghe!
Sáng mai Út về nhà…”làm nũng” với mẹ!
hihi…
“Tuấn Anh về nghỉ tết được ít vậy sao? Tội em chưa.”
Chị Năm ơi,
Em cám ơn chị rất nhiều về sự đồng cảm chia sẻ rất thân tình này của chị nhé.
Nhưng chị Năm ơi,
Em ở lại đến 27 Tết, và vào lại SG mồng Ba Tết là vì…chuyện vui của gia đình em…chị à, chớ không có gì là…”buồn và tội”…hết cả! hihihihihihihi…
Lần nữa em cám ơn chị Năm nghen.
P/s: À, còn Tín, nếu không có gì biến động, thì mồng Sáu nó mới vào lại SG chị à!
– “nơi quốc lộ “gặp” thiết lộ.”
Wow…! Chị Năm ơi,
Thật là vui vui đến hay hay trong một cảm giác sảng khoái đến lâng lâng, khi em tự nhiên bất ngờ đọc gặp từ…”thiết lộ” mà chị Năm dùng đó!
Bởi, lâu lắm rồi, cái từ này hiếm khi đọc gặp, vì…cái từ “đường sắt” đã bị “soán ngôi”…mất rồi!
Thế mới thấy, sử dụng ngôn ngữ chính xác trong từng ngữ cảnh, thì thật là…tuyệt diệu!
Với cái từ “Thiết lộ” này, chị Năm làm em chợt nhớ tới một tản văn tuỳ bút, được viết với một cảm xúc cùng văn phong thật hay của nhà văn Hoàng Ngọc Tuấn, mà thời học phổ thông em đã từng đọc và rất yêu thích, cũng với cái tựa đề mang 2 từ…
THIẾT LỘ.
Thuở còn nhỏ ở Huế, tôi yêu nhà ga lắm . Trước hết là vì nhà tôi ở ven sông, cách ga Huế chỉ một cây cầu ngắn bắc ngang qua sông Bến Ngự. Và có lẽ ở nơi nào cũng thế , nhà ga là một trong những tòa nhà xây theo lối cũ, có vẻ phong trần nhất , như một ông già “đẹp lão”.
Mỗi sáng, trong cơn vật vờ nửa mê nửa tỉnh, tiếng còi tàu xa xa đã mơ màng vang vọng trong tai tôi. Mở mắt, nhưng người vẫn còn nằm kỹ trong chăn ấm, nhìn trời tờ mờ sáng bên ngoài, tôi tha hồ tưởng tượng đến cảnh sân ga lúc tàu vừa chạy, người người rộn rịp đi lại vội vàng trong khi những bánh xe lăn dần trên đường sắt. Và những điều tưởng tượng đó không khác với sự thực bao nhiêu, bởi vì thỉnh thoảng tôi cùng với vài thằng bạn đạp xe đến nhà ga chơi vào buổi sáng, dầu chẳng có ai để đưa tiễn hay đón chờ.
Nhà ga Huế nằm ở một nơi thật đặc biệt. Như một lòng chảo, chung quanh là khách sạn, quán ăn, quán nước san sát bên nhau. Trước cổng ga, chen lấn trong đám hành khách, những người bán rong rao hàng inh ỏi, nào là bánh mì, mè xửng, nem chua, bánh kẹo… nhất là những thứ mà mấy bà già thường mua dành sẵn lúc đi đường: dầu cù là, khuynh diệp, mấy viên thuốc bắc uống để trừ cảm nắng cảm gió.
Ngồi trên băng ghế sát tường, tôi thích thú nhìn những hành khách xa lạ. Mọi người đều có vẻ tất tả, bận rộn, hoa tay hoa chân nói chuyện ầm ĩ, chạy lui chạy tớ , khuân vác cột cởi hàng hóa. Nét mặt ai cũng trông có vẻ lo lắng buồn bã, rất ít khi tôi nghe được tiếng cười, vì bây giờ là buổi sáng, thời khắc của những chuyến xe hỏa ra đi chứ không phải trở về.
Vây chung quanh những người ăn mặc tươm tất sắp sửa đi, thân nhân dùng dằng nắm tay lăng xăng nói hết chuỵên này chuyện kia không dứt, cả đến khi có tiếng còi tàu báo hiệu tàu sắp chạy.
Tôi thường tiếc mình không có người quen nào lên tàu để vẫy tay chào, chia xẻ một chút với nỗi buồn và vài giọt nước mắt của đám người ở lại. Hồi đó tôi còn nhỏ quá nên không chú ý đến những cặp tình nhân từ giã nhau, chắc họ mới là kẻ tốn nhiều nước mắt nhất. Bỏ hai đồng mua một vé vào sân ga, gần sát với những toa tàu, tôi có thể leo lên đi chơi một quãng đến An Cựu rồi nhảy xuống.
Khi tàu chậm chạp chạy, một vài người còn chạy theo níu kéo người đi dặn dò, tôi đứng yên một chỗ cho đến khi toa cuối cùng xa dần như một cái hộp nhỏ.
Còn nhớ trong sách giảng văn hồi đó, có một bài thơ của Tế Hanh về sân ga và tàu hỏa tôi đã học thuộc lòng:
“Những ngày nghỉ học tôi hay tới
Đón chuyến tàu đi, đến những ga
Tôi đứng bơ vơ xem tiễn biệt
Lòng buồn đau buốt những chia xa
Tôi thấy tôi thương những chiếc tàu
Ngàn đời không đủ sức đi mau
Có chi vương vấn trong hơi máy
Mấy chiếc toa đầy nặng khổ đau…”.
Bài thơ rất giản dị nhưng đã mang cho con tàu sắt vô tri hơi thở nóng và trái tim biết xôn xao. Một lão xà-ích già, suốt đời mang nặng trên lưng những niềm vui hội ngộ lẫn âu sầu cách biệt . Một công việc nặng nề biết mấy.
Rồi một ngày kia, tôi đã hiểu sân ga không phải chỉ là một nơi náo nhiệt vui vẻ. Dầu còn mang đôi mắt trong nhỏ dại, đôi mắt thông thường chỉ biết ứa lệ khi bị đòn, nhưng tôi cũng đã có dịp khóc vì những điều mường tượng như làn roi, nhưng vô hình và không quất trên thịt da, mà cứa đau trong một quả tim nhỏ tinh khôi còn mới.
Ngày đó mẹ tôi về Huế thăm tôi vào mùa xuân. Cả năm nay bà sống ở Ban Mê Thuột, một địa danh đem lại những cảm giác rờn rợn nhiều tưởng tượng về một chốn rừng sâu nước độc. Tôi không hề biết nơi đó, chỉ mơ hồ vẽ nên một vài cảnh sắc từ mấy tấm hình quảng cáo du lịch thường treo trong nhà ga, chụp những người Thượng đen đủi đóng khố đang uống rượu cần hay ngất ngưởng trên mình voi .
Bà ngoại tôi có thông lệ rải con cái khắp các tỉnh trên toàn lãnh thổ. Cậu T. lấy vợ ở Huế, cậu K., cậu H., cậu Th., dì N. sống ở Sài Gòn, dì T., dì L., theo chồng buôn bán ở Quy Nhơn, vợ chồng dì P. dạy học ở Lăng Cô và mẹ tôi ở Ban Mê Thuột, chắc là ngoài ý muốn của bà .
Một năm tôi được mẹ về thăm khoảng hai lần, ngày Tết và mùa hè nghỉ học. Từ vùng cao nguyên mù xa đó, bà chẳng có quà gì cho tôi, nhưng cần gì một món quà nào nữa. Tôi chỉ cần nhìn thấy khuôn mặt đỏ hồng và thân hình phục phịch của bà, chỉ cần nghe tiếng nói oang oang của bà suốt ngày, chỉ cần ngã vào lòng bà hít thở trong khi đầu tóc của mình bị bàn tay của bà vò nát bù xù. Có món quà nào quí giá hơn quà tặng của mẹ, không biết gọi tên rõ ràng là gì nhưng thắm thiết như trút sang một dòng máu nóng. Quà tặng của mẹ, đôi khi ta chỉ nhận được một vài lần trong đời thôi đó.
Mấy ngày có mẹ tôi về thật là vui. Tôi cùng ngồi với bà trong xe xích lô đạp, đi vòng khắp phố, xem chiếu bóng thả cửa, mua đủ thứ sách truyện chứa đầy bàn, may sắm những bộ quần áo mới, khoái nhất là tiền lẻ ở các hàng quán thối lại cho bà, bao giờ tôi cũng nhanh tay đón lấy thủ sẵn trong túi chờ dịp đi chơi “bao” bạn bè.
Đi học lại, tôi bỏ xe đạp ở nhà. Mỗi sáng mẹ tôi đi đâu có việc đều đem theo tôi đến tận cổng trường. Tôi chỉ trỏ cho bà thấy trường học của tôi, ngôi trường bán công nổi tiếng với bọn học trò phá phách, huyên thuyên kể chuyện về lũ bạn, về mấy vị giáo sư khả kính mà bà không thể tìm thấy ở bất cứ nơi nào ngoài trường này . Dĩ nhiên là tôi cũng phải lơ đi lão hiệu trưởng có lần quất mấy roi vào người tôi vì đi học trễ. Khi xe xích-lô dừng lại trước cổng trường, tôi sung sướng nhìn thấy tụi bạn đang tò mò nhìn tôi rồi chụm đầu nói nhỏ gì đó. Tôi có mẹ. Và hồi đó mẹ tôi đẹp lắm, bà tốt tướng và khuôn mặt phúc hậu, chứ không đen đủi ốm nhom như tôi.
Nhưng những ngày nồng đượm ấy rồi cũng qua đi. Mẹ tôi lên Ban Mê Thuột trở lại.
Một sớm mai , tiếng còi tàu đánh thức tôi dậy, nhưng không phải để tưởng tượng gì nữa. Tôi theo mẹ ra sân ga trong hơi lạnh mù sương và cơn buồn ngủ. Đến bây giờ tôi mới hối hận là đã có lần mong đưa tiễn người đi. Hôm nay mẹ tôi là một hành khách sắp đi xa, và tôi là kẻ ở lại với muôn ngàn ý nghĩ đau buồn lẫn lộn.
Mẹ ở trong toa tàu hạng nhì, bà ngồi sát với khung cửa xe để nói vài lời cuối với tôi. Đứng trên sân ga, tôi khóc thút thít như một đứa con gái, không dám ngửa mặt lên nhìn đôi mắt đỏ hoe của bà. Bà nói với tôi hãy về trước khi tàu chạy nhưng tôi vùng vằng lắc đầu chôn chân mãi một chỗ.
Mẹ tôi nói tôi đừng dụi tay bẩn vào mắt hoài như thế kẻo đau mắt, bà cài kín chiếc áo len cho tôi, xong bà nói sẽ về đón tôi lên Ban Mê Thuột với bà. Tôi khóc lóc đòi theo mẹ ngay bây giờ nhưng bà thở dài, nói rằng ở trên xứ rừng rú đó chưa có trường đàng hoàng nào cho tôi học.
Tôi bỗng thù ghét lớp học và sách vở, thầy giáo, bạn bè, những kỳ thi lục cá nguyệt v.v. Tôi nói với mẹ không muốn học hành gì nữa, thà làm một thằng mọi rừng xanh bên cạnh mẹ, còn hơn là làm một tên học trò mỗi tháng đứng nhất lớp mà phải đưa thông tín bạ về cho mấy bà dì ký sổ. Tôi cần mẹ hơn tất cả những thứ khác trên đời. Nhất là trong tiếng còi tàu đang hú lên thúc giục, khói sắp bay mịt mùng, bánh xe sắp lăn rời rã như hồn tôi. Tôi cũng ghét luôn những toa tàu, chứ không thương nó như ông Tế Hanh nữa. Dẫu nặng nề chậm chạp, nhưng đoàn tàu như một lão già sói đầu nhếch mép cười nham hiểm, bề ngoài có vẻ mệt nhọc như không mang nổi một cành hoa, nhưng thật ra dần dần mang đi mất khỏi tôi bông hoa quý giá nhất trên đời. Hoa tình mẹ, mấy ngày qua gắn chặt vào người tôi như một đinh ốc bằng kim cương, giờ đây rút ruột bật ra làm rách da thịt .
Rồi tàu hỏa cũng từ từ chạy không gì níu kéo được. Người bẻ ghi đưa hàng bánh sắt tách sang một đường khác .
Con đường ngược chiều mãi với tôi, một cậu nhỏ vừa tiễn mẹ ra đi, sớm mai lủi thủi ôm mặt khóc qua cầu trở về, bao tiếng động của thành phố như câm lặng hết, chỉ nổ bùng trong tai tiếng còi tàu rúc lên từng hồi như tiếng cú kêu suốt đêm thăm thẳm.
*
Thà làm một kẻ ra đi còn hơn là làm người ở lại. Một ngày kia, mùa hạ đến. Tôi đã được ngồi trên một toa tàu bên cạnh mẹ, lăng xăng với bộ quần áo kẻng nhất và va-ly cồng kềnh trên tay. Tôi cũng đứng ngoài cửa sổ như mẹ tôi lần trước, nhìn xuống sân ga. Lòng tôi cũng nôn nao khi nhìn thấy khuôn mặt nhăn nheo và mái tóc bạc phơ của ngoại tôi ra đưa tiễn. Nhưng cảm giác nôn nao lúc này có một chút gì ngây ngất kỳ thú.
Tàu đi. Tôi thả người trong lòng mẹ, bềnh bồng mơ tưởng đến chân trời xa, những thành phố lạ, những cây cầu sắt tôi sẽ đi qua, những căn hầm xuyên qua núi đá …và nhất là Ban Mê Thuột, một chốn rừng thiêng có lẽ giống như trong phim Tarzan mà tôi sắp sửa thám hiểm.
Tàu đi một quãng, tôi không ngồi yên một chỗ được. Tôi đi lại, chạy nhảy qua suốt những toa, tò mò nhìn qua khoen sắt nối các toa vào nhau, đứng trên những bục thang chạm san sát với cây lá hai bên đường .
Tàu chưa ra khỏi Huế, còn chạy dọc theo con đường bờ sông An Cựu. Cứ một quãng tôi lại nhìn thấy những cây cầu ngắn , những cành phượng đỏ ối, những ghe đò lùi xa dần cho đến khi mất biệt hoàn toàn ngoài tầm mắt. Tôi tiếc không nhìn thấy trường học của tôi trong lúc này, không thấy cầu Trường Tiền, không thấy quán bún bò trong Thành Nội, không thấy những quán chè trái cây trước rạp chiếu bóng. Đến một lúc , thành phố Huế như một đôi mắt đỏ bùi ngùi, dần dần khép lại .
Rồi tàu đi mãi, qua mấy hầm sâu đen ngòm, qua hầm Sen tối tăm ngạt thở dài dặc. Qua ven biển bát ngát với những cánh buồm xa xa đang giang hồ không thua gì tàu hỏa trên bộ. Qua đồng bằng, ruộng lúa, những quê nhỏ mái lá tiêu điều với khóm tre gầy guộc, thỉnh thoảng trên những cánh đồng loáng nước dưới ánh nắng, vài người nhà nông khẽ ngước đầu lên nhìn con tàu, tôi đưa tay vẫy vẫy nhưng không ai trả lời, họ lại cúi đầu xuống gặt lúa, vai áo đen thô và chiếc nón rách che kín mặt.
Tàu ghé ga Quảng Ngãi. Đám người bán hàng thi nhau ùa lên mời mua mạch nha, đường phổi, những gói cơm gà ủ trong lá…
Và dọc đường, ghé lại ga nào cũng có món ăn đặc biệt của mỗi vùng. Cam, quýt, bưởi, thanh trà, mía ghim… Và nhất là trứng vịt ngâm nước trà để có màu vàng giả làm trứng gà. Qua Tam Quan, Tam Kỳ, Bồng Sơn… những mảnh đất nhỏ với rừng dừa xanh tốt hai bên đường sắt. Một trái dừa nước mát lạnh, cùi ngọt mềm bán với giá chỉ ba đồng, lát dao rành nghề chặt ngang vỏ một nhát là thấy cùi trắng ngà bên trong, đục một lỗ và ngửa cổ uống mê ừng ực.
Rồi Tuy Hòa với chả lụa. Ninh Hòa với những đòn “tré”. Đến ga Ninh Hòa là những hành khách đi Ban Mê Thuột như mẹ con tôi phải xuống tàu. Đường Ninh Hòa lên Ban Mê Thuột chưa đặt đường hỏa xa nên phải đi xe đò. Tôi hồi hộp mừng vì gần đến Ban Mê Thuột, nhưng dù sao cũng bớt thú vị vì phải ngồi trên chiếc xe đò chật ních, nhồi lên nhồi xuống.
Chiếc tàu hỏa vừa mang tôi đi trong nó hơn một ngày trời, tiếp tục chạy nốt trên đường dài cho đến Sài Gòn.
*
Thiết lộ, con đường mang vẻ lãng tử nhất trong tất cả các con đường. Những con đường hàng không bay nhanh chóng quá, những con đường bộ nhấp nhô mệt nhọc trong chiếc xe hơi nhỏ, đều không đáng thích bằng hai đường sắt song song rì rầm đều đặn tiếng máy nổ từ đầu tàu như ru ngủ.
Về sau, khi trở thành một người lớn, tôi cũng có những chuyến đi xa nhưng không còn được êm đềm chung với mẹ một đường. Những chuyến đi cô độc không biết nơi dừng chân, khởi hành từ một tâm hồn lạc lõng rồi ra đi đến một cõi miền thất lạc nào. Những chuyến đi bàng hoàng, gượng cứng cỏi nhưng hai chân mềm run như lau sậy.
Những chuyến đi mà lòng nhủ lòng bằng mấy câu thơ đoạn trường của Huy Cận:
“Tôi đội tang đen và mũ trắng
Ra đi không hẹn ở trên đường …”
Không hẹn ở trên đường. Không chờ đón người. Không cuộc tao phùng. Không trở về. Đi và đi mãi. Định mệnh của những đứa con hoang là chỉ dừng chân trong chốc lát ở những sân ga lạ, hút vội điếu thuốc rồi lại lên tàu, nhà ga của quê cũ đã đổ vỡ tan tành trong trí nhớ.
Thiết lộ đã gãy nát đứt đoạn trong chiến tranh , nhưng sao ai xui khiến con đường lưu lạc ấy nối lại trong người tôi.
Cả một thời tuổi trẻ ruổi giong bơ phờ vì tiếng còi ma ảo thúc hối bên lưng. Lúc nào trước mặt cũng có thêm một con đường mới, dầu nhiều khi không phải là con đường sáng.
(Hoàng Ngọc Tuấn – 1972)
Hà Huyền Chi?
Có phải là chính thi sĩ tác giả của nhạc phẩm này không chị Năm?
LỆ ĐÁ
(Thơ: Hà Huyền Chi – Nhạc: Trần Trịnh)
Hỏi đá xanh rêu bao nhiêu tuổi đời
Hỏi gió phiêu du qua bao đỉnh trời
Hỏi những đêm sâu đèn vàng héo hắt
Ái ân bây giờ là nước mắt
Cuối hồn một thoáng nhớ mong manh
Thuở ấy tôi như con chim lạc đàn
Xoải cánh cô đơn bay trong chiều vàng
Và ước mơ sao trời đừng bão tố
Để yêu thương càng nhiều gắn bó
Tháng ngày là men say nguồn thơ
Tình yêu đã vỗ cánh rồi
Là hoa rót mật cho đời
Chắt chiu kỷ niệm dĩ vãng
Em nhớ gì không em ơi !
Mầu áo thiên thanh thơ ngây ngày nào
Chìm khuất trong mưa mưa bay rạt rào
Đọc lá thư xưa một trời luyến tiếc
Nhớ môi em và màu mắt biếc
Suối hẹn hò trăng xanh đầu non.
Đi Tây Nguyên chuyến này, bộ chị Năm hổng có thưởng thức chút rượu cần nào nữa hay sao mà Út hổng thấy chị post hình ảnh các ché rượu cần vậy?
hihi…
Tặng Bảo Vân “ché rượu cần” này há. Mời em thưởng thức, hihi.