Con Sáo Của Em Tôi
Ông sinh ngày 16 tháng 8 năm 1935 tại làng Tường An, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Ông học tiểu học và trung học ở Thái Bình và Hà Nội.
Năm 1954, ông di cư vào Nam và từng làm đủ nghề: bán thuốc sơn đông mãi võ, theo đoàn cải lương lưu diễn, quảng cáo cho gánh xiếc rong, giữ xe đạp hội chợ, dạy kèm, dạy đàn ghi-ta, dạy sáo.
Năm 1960, được sự nâng đỡ tận tình của nhà văn Nguyễn Mạnh Côn, Duyên Anh bắt đầu sự nghiệp văn chương và nổi tiếng ngay với tác phẩm đầu tay Hoa Thiên Lý. Tiếp theo đó là một loạt Thằng Côn, Thằng Vũ, Con Thúy…. viết về những kỷ niệm ấu thơ tại miền quê Bắc Việt, giọng văn tha thiết, nhẹ nhàng và tình cảm.
Hôm nay, Nguyệt Mai xin giới thiệu với các bạn một truyện ngắn rất cảm động của ông:
Con Sáo Của Em Tôi
Duyên Anh
Sau khi cha tôi mất, gia đình càng ngày càng túng bấn, một mình mẹ tôi không đủ sức nuôi nấng hai đứa con mồ côi nơi thành thị nên mẹ đưa hai anh em tôi trở về làng cũ. Bên nội xóa bỏ tên cha tôi trong gia phả vì cha tôi xé tờ khai sinh mà ông tôi cố tình điền tên tuổi người vợ cả vào chỗ tên tuổi mẹ tôi. Ông tôi muốn gạt mẹ khỏi cuộc đời cha tôi bấy giờ và cuộc đời tôi mai hậu. Việc ấy rất giản dị như ông đã xóa bỏ tên chú Nghị vì chú mê cô đào cải lương gia nhập ban hát, lang thang rày đây mai đó. Bên ngoại từ bỏ mẹ tôi ngay từ dạo mẹ có mang ba tháng vì mẹ trốn nhà, vượt luật lệ cổ truyền, theo cha tôi làm vợ lẽ. Thành thử lớn lên anh em tôi mù mịt cả ý niệm gia tộc. Mẹ tôi thường kể rằng trước khi lấy mẹ tôi, cha tôi đã có vợ. Người vợ ấy cha tôi không yêu thương, nên bốn năm liền bà tôi cứ hoài công mong bế cháu. Ông tôi buồn phiền, thở dài thườn thượt, ông nghĩ đến nghiệp chướng xa xôi nào, lúc này sự quả báo hiện hình khiến dù con gái. Thật vô phúc. Cha tôi đi vắng luôn luôn, cha năng ở nhà ông phó Nhị hầu hạ ông để hòng ông truyền hết ngón đàn thập lục.
Cha tôi phải giặt quần áo, đấm bóp chân tay hay kiếm rượu, đồ nhắm cho ông Phó, phục dịch ông đủ điều. Rốt cuộc ông Phó vẫn giữ lại đôi ngón sở trường, ông sợ dạy hết, mai mốt cha tôi giỏi hơn ông. Bởi vậy, tài nghệ của cha tôi chưa nổi bật, và chưa đủ thời giờ nghiên cứu âm nhạc quê hương thì cha tôi đã gặp mẹ tôi. Cuộc tình duyên này làm đảo lộn đời cha và ảnh hưởng rất nhiều đến anh em tôi sau này
Ông nội tôi biết chuyện tức sôi ruột, chửi bới cả gia đình nhà mẹ tôi. Tiếng dữ đồn tới xóm làng bên kia sông. Ông ngoại tôi đuổi mẹ tôi khỏi cửa. Bấy giờ mẹ tôi có mang tôi được ba tháng. Cha tôi lén lút gởi mẹ tôi nương náu nhờ người bà con xóm cuối thôn. Bà nội tôi thương con cả, lại nghe tin mẹ tôi có chửa nên bớt giận. Bà nội xin ông nội nhận mẹ tôi làm vợ lẽ cha tôi. Cuộc hôn nhân không giá thú. Việc tưởng vậy êm thắm. Ai ngờ ông ngoại tôi lồng lộn tìm bắt mẹ tôi, đánh đập mẹ tôi một trận tàn nhẫn. Tệ hơn nữa, ông ngoại tôi lại gọt hết tóc, bôi vôi trắng xóa đầu mẹ tôi rồi mới đoạn tình phụ tử. Mẹ tôi phải trùm khăn vuông kín mít ngót hai năm trời.
Mẹ về sống dưới gian nhà mái dột, vách bùn trát nham nhở bên cạnh chuồng trâu của đại gia đình họ Nguyễn nhà tôi. Suốt thời gian đèo bòng cái hình hài tôi, cái bọc đau khổ, mẹ tôi chịu đựng bao nhiêu điều tủi nhục. Hết người vợ cả hẹp hòi, ích kỷ của cha tôi hằn học ghen tuông, lại đến các cô tôi kiếm cớ sinh sự. Vợ cả cha tôi bảo mẹ tôi độn vải đầy bụng để đánh lừa ông tôi. Ông tôi nhiều bận chỉ mặt mẹ tôi dọa nạt rằng nếu đúng tháng mà không sinh nở thì sẽ tống cổ mẹ tôi đi. Chú Nghiêm thỉnh thoảng về thăm nhà cũng hạch sách mẹ tôi. Ông tôi quý chú Nghiêm lắm. Trong khi cha tôi mải đàn sáo, chú Nghị giang hồ phiêu bạt, chú khéo léo chiều ông tôi. Bởi thế chú Nghiêm được xuống tỉnh học, đỗ đạt giỏi giang. Chú khinh bỉ mẹ tôi, sự khinh bỉ chú học mót của đám dân trưởng giả thành phố. Mẹ tôi đau khổ trăm chiều, ngày làm quần quật như con vật, tối ôm bụng khóc một mình. Tội nghiệp mẹ tôi, tôi chả biết ví mẹ giống ai. Ðầy tớ nhà ông tôi còn sung sướng còn nói đùa nghịch, chứ mẹ tôi thì câm nín suốt ngày đêm. Cha tôi hy vọng mẹ tôi sinh con trai và đứa đầu lòng sẽ là nhịp cầu bắc qua những tâm hồn người bên nội với tâm hồn mẹ tôi. Chắc chắn mẹ tôi hết tủi cực.
Ðến ngày mẹ tôi trở dạ, ông tôi cất vội vàng túp lều nhỏ ở xó vườn, cạnh khóm chuối tiêu. Tôi cất tiếng khóc ban đầu nơi ấy, ở túp lều xó vườn, cạnh khóm chuối tiêu, cạnh những con người hà tiện tình thương mến. Vì đêm tôi mở mắt chào đời, cha tôi đi vắng nên cớ sự xảy ra như tôi đã nói đoạn đầu. Tuần lễ sau cha tôi về, cha nghiến răng xé nát tờ khai sinh rồi đưa mẹ con tôi xuống tỉnh lỵ. Tôi vĩnh biệt họ hàng bên nội bằng mấy tiếng “oe oe”. Tôi lớn dần, lớn dần để thu vào tầm mắt non nớt hình ảnh cuộc đời cha tôi: hình ảnh gã nhạc công hậu trường sân khấu cải lương, hình ảnh ông lái thuốc bắc, hình ảnh ông thư ký sở tư, hình ảnh ông thợ chữa xe đạp và sau rốt là hình ảnh ông lang chế thuốc cao đơn hoàn tán. Mãi tới ngày cha tôi mất, tôi mới thù hằn những hình ảnh méo mó đọa đầy linh hồn cha tôi. Sao đời cha tôi nhiều hình ảnh thế? Và đời tôi nữa, hình ảnh thẫm nét nhất là một đêm mù mịt bên khóm chuối tiêu. Thế mà anh em tôi lại phải về quê ngoại. Tôi không hiểu tại sao mẹ tôi chịu nhục nhã, nương náu dưới túp nhà lá bỏ hoang vườn sau, trước đây ông bà ngoại dành riêng cho bọn thợ gặt mỗi vụ mùa. Mẹ tôi chỉ nghĩ đến anh em tôi. Trời ơi, tôi muốn khóc quá.
Ở đây, chúng tôi sống lủi thủi cô độc. Mẹ tôi dọn quán bán nước chè tươi, xôi chè, canh bún ngoài bến đò Ðồng Đức, bòn nhặt từng hào chỉ. Thường mẹ dậy sớm sửa soạn đồ hàng, cơm nước buổi sáng để anh em tôi ăn. Mẹ nắm thêm hai nắm nhỏ phòng trưa đói còn lót dạ tạm. Chập tối mẹ lần mò về nhóm bếp thổi cơm. Bữa nào hàng ế ẩm, mẹ con tôi ăn canh bún, ăn xôi chè thay cơm. Mẹ tôi luôn luôn vui vẻ dù thỉnh thoảng cậu mợ, dì bác tôi mỉa mai đủ điều. Họ nói những lời mà bây giờ tôi hãy còn nhớ. Tôi không thể tưởng tượng nỗi tê tái nghiến nát cõi lòng mẹ khi bà ngoại gọi mẹ là “đồ đĩ”, bác tôi bảo mẹ là “con lăng loàn” và mợ tôi nói bâng quơ “cóc chết ba năm quay đầu về núi”. Tôi thấy mẹ tôi cúi đầu lẳng lặng, nước mắt nhỏ giọt trên mái tóc em tôi, thì tôi đoán rằng mẹ buồn. Hồi ấy, tuy tôi bé bỏng nhưng tôi đã biết xét đoán những con mắt soi mói, những lời tiếng bấc chì, những bộ mặt ích kỷ của mọi người họ hàng bên ngoại. Tôi thương mẹ. Tôi thương em gái tôi hơn, chưa được hưởng sung sướng thì cha vội lìa đời. Tôi hằng mơ ước một mai khôn lớn, tôi sẽ kiếm tiền nuôi mẹ, sẽ tậu nhà ở tỉnh, mẹ tôi thôi bán hàng, em tôi cắp sách đi học. Nghĩ vậy tôi thèm đọc sách lắm. Khốn nỗi mẹ tôi nghèo cực, lấy tiền đâu mà mua. Tôi đành học ôn mớ sách cũ nát và dạy em tôi từng trang, từng đoạn dè sẻn, sợ hết chữ.
Ðám con cái cậu mợ tôi vào hùa cha mẹ chúng bắt nạt anh em tôi. Hễ em tôi hở ra món đồ chơi nào là chúng nó tìm cách ăn cắp. Tôi đòi, chúng xúm nhau đánh đập tôi sưng tím cả mặt mày. Em tôi khóc, mẹ tôi thở dài đau đớn. Dần dần cuộc sống quen nếp. Anh em tôi biết thân phận, bắt chước mẹ tôi, tập nhịn nhục, tập nghiến răng và hy vọng. Anh em tôi đùa nghịch với nhau, chẳng dám lai vãng đến thềm nhà ông bà ngoại.
Tôi hay bắt dế, bắt chuồn chuồn, bắt công cống cho em tôi chơi. Bạn bè của chúng tôi có chừng chỉ có con chim chích chòe sáng nào cũng đậu trên cành soan ca hát líu lo rồi tung cánh bay xa tìm mồi. Em tôi thích chim. Tôi vụng về, không trèo cao được. Tôi hẹn sẽ bắt tặng em tôi một con sáo khi mùa xuân sang.
Mùa xuân, hoa soan vườn nhà nở nhiều, mầu tím dịu mắt. Mẹ tôi nói hoa soan nở chỉ tổ đuổi muỗi mệt xác. Cùng lượt hoa soan khoe sắc, sáo trên rừng đổ xô xuống đồng bằng hàng đám, cơ man. Em tôi nhìn những con sao đen, lông muôn muốt, viền mắt vàng vàng, ra chiều thèm ước. Tôi theo bọn trẻ con bến đò, lấy rổ rách, vất cạp rồi buộc lại tựa hình cái đó đơm tép. Xong, tôi bó manh chiếu bên ngoài bịt chặt một đầu, còn đầu kia để ngỏ cho sáo ra vào. Tôi buộc tổ sáo trên cành sung thấp nhất. Hai hôm sau vợ chồng nhà sáo bắt đầu tha rác về tổ của anh em tôi. Chúng tôi hoan hỉ đợi chờ. Em tôi chưa chi đã vội lo cái lồng nhốt con sáo. Tôi bảo em tôi phải mong ba tháng. Em tôi sốt ruột. Ngày nào cũng hỏi thăm sáo. Mẹ mắng em, em dỗi bỏ cơm. Tôi dỗ dành em mới chịu ăn.
Ít lâu sau tôi trèo lên thăm tổ. Tôi thò tay tận phía trong và biết sáo đẻ bốn trứng. Tôi lôi ra xem. Trứng sáo to bằng ngón tay cái của tôi, màu xanh xanh vân vân đẹp quá. Tôi kể chuyện em nghe. Em nhẩy reo ầm ỹ. Mẹ tôi dọa rằng :
– Rắn ưa tìm tổ chim ăn trứng. Con liệu hồn, nó cắn thì chết.
Tôi phát run, thề sẽ chừa thói liều lĩnh nguy hiểm. Nhưng em tôi muối coi trứng sáo, em cứ nằn nì đem xuống một trứng. Tôi đành mạo hiểm lần nữa. Lúc tôi đang lúi húi trước cửa sổ thì vợ chồng đôi sáo bay về. Chúng nó lượn trên đầu tôi, kêu inh ỏi. Tôi bỏ trứng vào túi áo, tụt xuống, sướt cả tay, máu chảy đầm đìa. Em tôi thỏa mãn sự tò mò, em trông tôi, thương hại. Tôi an ủi em và trả lại trứng cho sáo.
Tối hôm ấy mẹ tôi đánh tôi hai roi tội không vâng lời. Mẹ nói :
– Còn trèo nữa, sáo sẽ bỏ tổ.
Anh em tôi lo ngại ngủ chẳng ngon giấc. Ngày tháng mùa xuân trôi vùn vụt. Một buổi sáng anh em tôi nghe rõ tiếng sáo con kêu trong tổ, em tôi hỏi:
– Anh ơi! Sáo con có bú mẹ không?
Tôi vuốt tóc em dịu dàng trả lời :
– Em bú mẹ chứ sáo nào bú mẹ
Em ngây thơ:
– Thế làm sao nó lớn được?
– À sáo mẹ mớm mồi.
– Sáo bố làm gì hở anh?
– Sáo bố đứng canh. Em nhìn thì biết. Kia kìa, trên cành cây gần tổ. Khi sáo mẹ mớm mồi cho các con, cũng như khi ấp trứng, sáo bố bao giờ cũng lởn vởn ngoài tổ em ạ!
Tôi giảng nghĩa thế vì tôi nghe lỏm bọn trẻ con ngoài bến đò. Em tôi ngạc nhiên, ngây người đứng ngắm. Lát lâu em mỉm cười nũng nịu:
– Sáo con ngủ, sáo mẹ có ru không anh?
– Chắc có.
– Anh biết à?
– Thì anh đoán, chim cũng như người vậy em ạ!
– Mẹ ru em bằng bài “Con cò mà đi ăn đêm”, sáo ru con bằng bài gì hở anh?
– Anh chịu, chả biết được.
– Giá sáo là người để em hỏi nó chắc thích lắm anh nhỉ?
– Ừ.
Ðám con cái ngỗ nghịch của cậu mợ tôi đã thấy chỗ tôi buộc tổ sáo. Tôi tức sôi ruột, tức muốn đốt nhà chúng nó. Chúng nó rình mò làm tôi không thể ra bến đò trông hàng giùm mẹ tôi những lúc đông khách. Anh em tôi thay phiên nhau canh gác. Mẹ tôi khuyên tôi nên chia sáo cho chúng nó. Tôi miễn cưỡng phải rỡ tổ đáng lẽ chờ vài hôm nữa sáo con già dặn hơn. Hôm tôi bắt sáo con, vợ chồng sáo bay lượn kêu thảm não. Sáo mẹ sà xuống sát đâu tôi như thể nó sắp mổ mắt tôi. Chẳng trách cha tôi xé tờ khai sinh, mẹ tôi chịu vất vả, khổ sở. Mẹ tôi mua giỏ bắt cua để tôi nhốt sáo. Cậu mợ tôi chọn lựa ba con đẹp, lớn; phần tôi là con sáo đẹt, bé nhỏ, xấu xí nhất đàn. Tôi buồn, khóc mấy đêm ròng. Làm sao tôi nhớ hết mọi chi tiết vụn vặt cái hôm ông cậu bà mợ tôi chia sáo? Cậu tôi bóp con sáo xấu số của tôi khiến cho nó há mỏ ra. Em tôi run rẩy chỉ sợ nó chết? Mợ tôi bảo:
– Bọn mày nuôi sáo làm quái gì, cơm còn không đủ ăn lại có cơm thừa nuôi sáo.
Tôi cáu tiết cãi lại :
– Sáo ăn cào cào chứ cần gì cơm gạo.
Cậu tôi chẳng nể nang gì mẹ tôi cả, cậu chúi đầu tôi một cái thật mạnh. Tôi lao đao suýt ngã. Cậu mắng mỏ :
– Ðồ chết cha, đồ con hoang có khác. Anh em mày lớn lên thì thành đồ ăn cắp!
Tôi nín lặng, em tôi chạy vào ôm lấy mẹ. Và cả tôi cũng lủi thủi cầm con sáo vừa đi vừa khóc. Tiếng khóc của em tôi rõ ràng hơn. Mẹ tôi thương anh em tôi, mẹ bỏ bán hàng nửa buổi đan cái làn mắt thưa. Mẹ bảo nhốt sáo vào đấy rồi treo lên cây, sáo mẹ luyến con sẽ mớm mồi, như vậy sáo chóng lớn.
Tôi nghe mẹ. Quả con sáo của anh em tôi được sáo mẹ chăm lo chu đáo. Ðám con cái của cậu mợ tôi ghen ghét. Chúng nó chăm chăm đòi bắn đôi sáo già. Tôi chỉ ngại nhỡ chúng bắn sáo của tôi. Bọn ranh con mất dạy, ích kỷ bắn súng cao su không trúng, chúng nó nhờ người thổi ống xì đồng. Buổi sáng hôm cái gã mắt chột rình rập ngoài vườn, anh em tôi lo cuống quýt. Em tôi nhìn sâu chim đủ loại: chào mào, chích chòe, liếu tiếu lủng lẳng trên vai hắn, em nói nhỏ :
– Khéo nó bắn chết sáo mất anh ạ!
Tôi run run trả lời em:
– Ðừng sợ em ơi! Mắt nó chột bắn chả tin đâu.
Nhưng đôi sáo già đi kiếm mồi đã về. Tim anh em tôi đập mạnh. Tôi rõi mắt lên cành sung chờ đợi. Sáo bố đậu cách cái làn khá xa, sáo mẹ mon men lại gần mớm mồi. Trong lúc đó, viên đạn đất oan nghiệt từ ống xì đồng thổi phụt ra. Sáo bố trúng đạn rơi xuống ao. Em tôi giật nẩy mình kêu lớn :
– Chết em rồi!
Tôi cảm thấy như viên đạn trúng đầu tôi. Con sáo bố đã chết. Sáo mẹ bay lượn, rỉa rói ai oán hàng giờ. Em tôi ứa nước mắt :
– Sáo của anh em mình mất bố rồi nó sẽ khổ lắm anh nhỉ?
Câu nói khiến lòng tôi se lại. Tôi nhớ cha tôi. Phải chi cha tôi còn sống thì anh em tôi đâu khổ sở thế này. Sáo mẹ thỉnh thoảng bay tới, nó chỉ dám sà vội qua cái làn, có khi sáo con chưa kịp há mỏ, mồi đã rơi mất. Sáo mẹ sợ sệt tất cả. Tôi chạnh nghĩ đến mẹ tôi mà buồn vời vợi.
Em tôi lo cho sáo con, đòi mang xuống. Tự đấy sáo mẹ không trở lại nữa. Có lẽ nó đã chết vì cô độc hay đã về rừng. Chúng tôi nuôi sáo bằng chuối. Dần dần sáo lớn, tôi ra đồng đập cào cào lấy mồi nuôi sáo. Tội nghiệp sáo con côi cút, đêm ngày âm thầm chui rúc trong cái giỏ cua. Em tôi đang phân vân không hiểu mai kia sáo lớn nhốt vào đâu. Ước gì có cái lồng tre, chúng tôi mơ ước song mẹ tôi không thừa tiền chiều chuộng con.
Giữa lúc đó thì chú Nghị đến thăm mẹ tôi. Họ hàng bên nội nhà tôi chỉ chú Nghị là kẻ có lòng. Bao nhiêu năm tháng qua rồi, từ ngày tôi sinh ra đời tới bây giờ, chú luôn luôn an ủi, giúp đỡ mẹ tôi. Tuy chú nghèo, tôi thường nghĩ giang hồ phiêu bạt như chú, giầu sao được. Chú Nghị tốt lắm, chú bênh vực mẹ tôi thuở mẹ tôi bị cả gia đình chồng xúm vào cấu xé, đay nghiến chỉ vì mẹ tôi thương yêu cha tôi quá đến nỗi mẹ bằng lòng lấy cha tôi không cần giá thú. Hôm đưa xác cha tôi tới nghĩa địa, tôi thấy chú khóc nức nở khi những tảng đất phủ kín dần chiếc quan tài bằng gỗ mộc. Tôi còn đủ trí nhớ để hình dung ra bộ mặt khắc khổ phong sương của chú Nghị. Và hình dung ra thì tôi lại ghét cay đắng ông bà nội, các cô các chú tôi, nhất là người vợ cả ích kỷ của cha tôi.
Dạo cha tôi ở Hà Nội, ban tuồng chú Nghị sau nhiều chuyến lang thang dọc đường gió bụi, trở về trình diễn tại thành phố này. Chú dành ghế cho cha mẹ tôi xem tuồng liên miên. Mỗi buổi tan hát, chú dẫn đi ăn mì. Khi rảnh rang, chú dắt tôi tới vườn Bách thú xem xiếc hoặc dạo mát loanh quanh trong công viên rồi ra ngồi ăn bánh tôm trên đường Cổ Ngư bên hồ Trúc Bạch. Mỗi phố tôi qua, chú dạy tôi cách trông chừng hai đường xe cộ lưu thông. Vì chú cháu tôi hay thơ thẩn buổi sáng, chú bảo tôi thở hít mạnh, chú giữ lưng tôi ngay thẳng tựa người lính tập đứng nghiêm. Tôi yếu đuối, chắc chắn sự yếu đuối ảnh hưởng phần nào những ngày mẹ tôi mang thai tôi, tâm hồn mẹ bị dằn vặt, thôi thúc thời gian đó. Nguyễn Huệ, Lê – Lợi, Lý – Thường – Kiệt, câu kết luận của chú bao giờ cũng hàm đầy ý khuyến khích:
– Cháu gắng lên, mai mốt cháu sẽ giỏi, cháu sẽ hãnh diện làm con của cha mẹ cháu.
Tôi không nghe chú nói tới quãng đời luân lạc chìm nổi của một kép hát. Sau này vợ chú bỏ chú lấy người khác, chú nghiện rượu và thù hằn tất cả. Tôi không biết tại sao chú hay giấu giếm sự uẩn ức mà đáng lẽ nói được thì chú bớt giận dữ kẻ khác trên đời. Nhưng, ngay trong những cơn điên tàn bạo, chú tôi rất hiền hòa với mẹ tôi. Tôi nhớ dạo gia đình tôi sống ở ngoại ô Khâm Thiên, nhà tôi phải đi qua cái ngõ hẹp bẩn thỉu. Một buổi tối, tôi đang cắm cổ bước, vì tôi sợ ma, thình lình chú Nghị nấp sau đám giậu kêu “ú a ú ớ” cơ hồ tiếng ma quỷ giận hờn rồi xô ra chắn lối. Chú muốn dọa tôi nên chú chơi thế. Song lúc ấy tôi không thèm hiểu. Trong khoảnh khắc, đầu óc tôi tràn ngập sợ hãi, khích động. Tôi cáu tiết đá chú một cái thật mạnh. Tôi mới lên mười nhưng tôi mang giầy, trong cơn tức giận tôi đá mạnh kinh khủng và cái đá làm xước ống chân chú Nghị. Máu chảy ròng ròng, chú đau đớn, rên nhè nhẹ rồi ngẩng lên mỉm cười. Chú ôm tôi xin lỗi. Tôi khóc thương chú khiến chú rớt nước mắt. Chú Nghị mang vết sẹo trên da tháng năm nối tiếp. Thỉnh thoảng vui vẻ, chú kéo ống quần khoe vết sẹo. Anh em tôi lại sà vào lòng chú nũng nịu.
Ngày mẹ tôi dìu anh em tôi về quê ngoại, chú phiêu bạt mãi tận Sài Gòn. Thành thử chúng tôi trống rỗng buồn tẻ. Không ai bênh vực an ủi anh em tôi. Nay tự nhiên chú Nghị đến, hỏi chi anh em tôi không vui mừng sung sướng. Bên ngoại vẫn thù bên nội vì ngày mẹ tôi trốn nhà theo cha, ông nội cứ gọi tên ông ngoại chửi bới, trách móc. Lúc này chú Nghị có mặt ở đây, tôi thấy chú nhét bông đầy tai và đeo kính râm suốt ngày. Chú mua cho tôi vô số sách đẹp. Chú dạy anh em tôi học. Tôi thích chú Nghị nói chuyện lịch sử. Em tôi thì bận tâm về con sáo nhỏ. Em khóc khi chú dạy tôi toán pháp. Chú hỏi em tại sao, em bảo ước gì có cái lồng như bọn anh chị em con cậu con bác tôi. Chú Nghị vuốt tóc em, chú tháo cặp kính, mắt chú đỏ ngầu, chú thẫn thờ giây lát rồi ghé tai em tôi thầm thì. Em tôi nhảy lên reo múa. Mấy hôm sau, chú bỏ việc dạy học, ngồi cặm cụi vót tre đan lồng. Ba bốn ngày liền chú mới đang xong. Cái lồng sáo của em tôi đẹp chả thua gì lồng bán ngoài bến đò. Chú làm chiếc thang ngang lấy chỗ cho sáo đậu, chú buộc cóng đựng nước và cóng chưa có gạo, nước. Con sáo được nuôi trong lồng ra bỏ đi. Mẹ tôi giữ thế nào cũng chẳng nổi. Tôi hết hy vọng học chú. Hôm chú mới đến, chú hứa chú ở lâu, chú nói dối anh em tôi. Chú Nghị ra đi, ít tháng sau được tin chú chết, mẹ con tôi buồn não nuột. Từ đó, sớm chiều anh em tôi đành tâm sự với con sáo.
Tôi ra đồng đập cào cào, châu chấu làm mồi cho sáo ăn. Em tôi thích đút chuối cho sáo. Em cắn miếng chuối nhỏ, xâu vào đầu cây tăm. Em thổi sáo miệng, chú sáo đói kêu “khách khách” trả lời rồi há mỏ ra đợi em tôi mớm ăn. Em còn cho sáo ăn thịt nữa. Những buổi trời ấm áp, em tôi tắm sáo, rửa lồng. Nhìn sáo phơi mình dưới ánh nắng, mắt em tôi bừng lên những tia sung sướng, hy vọng. Em hay thả sáo tự do nhởn nhơ khỏi lồng. Em đi trước, sáo theo sau tựa hồ đôi bạn côi cút thương yêu nhau. Con sáo của em khôn lắm, nó thường “làm nũng” em lúc em cho nó ăn. Nó nhảy lên cánh tay em rồi bậy trắng lòe áo. Em thích ôm sáo trong lòng đôi bàn tay hoặc để nó đậu trên vai rất âu yếm. Bữa nào sáo ăn ít, em sợ sáo ốm, sáo chết, em buồn có khi em khóc. Nhiều đêm trời mưa bão, em ngủ không yên, thức giấc là hỏi chuyện sáo.
Ngày tháng trôi qua, con sáo của em tôi thay hình đổi dạng. Bộ lông đen mượt, nó nhẩy nhót luôn chân. Nó đã biết mổ gạo. Như thế anh em tôi khỏ cần lo cào cào, châu chấu, chuối, thịt nữa. Mẹ tôi bảo bóc lưỡi sáo vài lần thì nó mới nói được. Em tôi sợ sáo đau nên ngần ngừ. Nghe ai mách rằng cho sáo uống nước cua kẻo nó “sốt rét”, em tôi định làm, song mẹ tôi mắng :
– Sáo đẻ ở đồng bằng thì ngã nước cái gì, chỉ vẽ chuyện.
Thế rồi anh em tôi cũng phải nhờ mẹ tôi bóc lưỡi sáo. Con sáo xấu xí út ít không ngờ đẹp quá. Bọn trẻ gạ gẫm mua, anh em tôi từ chối. Chúng nó tức giận bèn mang con mèo già hung ác tới dọa nạt. Anh em tôi thay phiên gác sáo.
Bây giờ con sáo tập hót. Mắt nó còn viền vàng xinh đáo để. Thỉnh thoảng vắng người nó líu lo đôi tiếng. Hễ có người thì nó câm tiếng. Em tôi cho rằng nó xấu hổ. Một buổi trưa anh em tôi đang thiu thiu ngủ bỗng nghe con sáo kêu hoảng hốt. Em tôi vùng dậy, thấy ở thềm nhà gã mèo hung ác đứng gầm gừ nhìn lên. Em vác guốc ném trúng mèo, nó co đuôi chạy mất. Chúng tôi lo sợ. Mẹ tôi bắt mang lồng sáo ra ngoài hàng, tối mang về.
Khách hàng ghé quán mẹ tôi, họ dạy anh em tôi cách tập sáo nói. Họ bóc hộ lưỡi rồi họ che kín mít lồng. Quả nhiên sáo không nhìn rõ ai, hót líu lo. Giọng nó trong vắt mà buồn làm sao. Trưa hè ở bến đò vắng vẻ, tiếng nó gợi cho anh em tôi bao nỗi nhớ nhung thương tiếc. Tôi lại nhớ chú Nghị, nhớ cha tôi. Dần dần em tôi dạy nó nói. Bài học vỡ lòng để sáo nói tiếng người là :
– “Sáo dạ, sáo dạ, nhà có khách”.
Em tôi kiên nhẫn dạy sáo, mãi rồi con sáo côi cút của em tôi nói được. Em ngây thơ lắm, em dạy cả sáo hát, dạy nói những lời hết sức tha thiết:
-“Sáo nhớ mẹ, sáo khóc “.
Con sáo dường như hiểu nỗi lòng của em tôi nên cố gắng. Khi em hát, sáo hót và nói “Sáo nhớ mẹ…” Càng ngày sáo hót càng hay. Thấy là lạ, ông ngoại tôi xuống chơi nhà tôi nghe sáo nói. Việc này quá sự tưởng tượng của mẹ tôi. Từ ngày gia đình tôi về nương náu ở đây có khi nào ông ngoại tôi thèm thăm hỏi. Ông thích con sáo, ông đòi mượn. Em tôi lăn ra khóc từ chối. Sau hôm ấy, ông ngoại ghét anh em tôi hơn.
Ở bến đò, vô khối người muốn mua, họ trả một trăm đồng nhưng em không bán. Mẹ tôi khuyên em nên bán vì trăm bạc sẽ may được cho hai anh em tôi mỗi đứa hai bộ quần áo diện tết. Em tôi không cần quần áo, nếu mẹ bán sáo thì em tôi sẽ nhịn đói đến chết. Cuối cùng mẹ chiều em. Anh em tôi có con sáo nên bớt cô độc. Trẻ con hàng xóm năng lui tới nhà tôi trừ bọn anh em họ độc ác của tôi. Trong quãng đời thơ ấu buồn tủi, anh em tôi thèm thuồng đủ thứ. May mắn mẹ đưa anh em tôi về quê chứ ở lại Hà Nội thì anh em tôi còn khổ sở dường nào. Ðiều chắc chắn là em tôi không có con sáo để trút nỗi niềm. Em tôi ưa ngồi một mình nói chuyện với sáo. Em tôi kể nỗi hiu quạnh của em làm như sáo hiểu nổi. Em hỏi sáo :
– Mất bố mẹ sáo có khổ không?
Rồi em nói tiếp:
– Khổ ư? Tội nghiệp nhỉ, bé bỏng thì chỉ bị bắt nạt thôi sáo ạ! Sáo đừng khóc nhé! À sáo ăn no chóng lớn, chớ bỏ bữa, gầy còm rồi chết thì tôi buồn đấy sáo ạ! Chả ai chơi thân với người nghèo như mình đâu.
Con sáo đôi khi vô tình buột miệng:
– “Sáo nhớ mẹ sáo khóc”
Em tôi dỗ dành :
– Ừ, sáo nhớ mẹ, tôi cũng nhớ cha. Sáo khóc à, thì khóc đi…
Tôi nằm nghe, nước mắt trào ra cay đắng. Dạo ấy tôi mới chỉ mười ba tuổi, em tôi tám tuổi. Nhưng tôi sớm tiếp nhận nỗi u sầu vào tâm hồn. Và bao nỗi niềm tủi nhục thay phiên hất hủi mẹ con tôi nên tôi đã khôn ngoan, đã biết khinh bỉ họ hàng bên nội bên ngoại trừ chú Nghị.
Cuộc đời đọa đầy tôi ngay ở cái tuổi đáng được hưởng hạnh phúc, sung sướng. Thành ra nếu có ai nghi ngờ, tôi vẫn nói rằng suốt thời thơ ấu của tôi, tôi không biết trông trăng trông sao, không biết bẻ hoa bắt bướm mà chỉ biết be bờ ruộng đơm đó kiếm tép để ăn, ăn thừa thì mẹ tôi đem ra bến đò bán. Cùng tuổi tôi, đám con cái của cậu mợ tôi còn vòi vĩnh cha mẹ, ngu ngơ chả hiểu gì. Thế mà tôi hiểu cách rang cám cho thơm, cắt màn cũ khâu thành vó, vót tre thành giọng, cất vó tôm. Tôi hiểu cách cưa ống nứa, đan hom đào giun xào với lá bòng thả ống lươn. Tôi hiểu cách đan rọ cá rô, ngâm thóc vào nước gạo cho thối nhử đàn cá. Tôi hiểu nhiều lắm, hiểu cả những lời bóng gió, mỉa mai của thiên hạ để sau này bước xuống cuộc đời đem tâm sự của một con chim hụt mũi tên.
Mẹ tôi ví tôi như trái chín rấm. Tôi tưởng tôi là trái chín hoang. Vì trừ trái chín cây không thèm kể đến, trái chín rấm còn được người ta xếp vào lò hay bỏ vào vựa, vào chum, người ta nhét vào đầy lá soan cho mau chín chứ đời tôi, đời anh em tôi nhất định là hai trái chín hoang. Ngày nào đó, người ta thấy hai trái xanh quá, xấu xí quá, người ta ném vô bụi giậu. Mưa, nắng, gió bão tới tấp, chịu đựng nổi thì trái chín. Tôi biết tôi chịu đựng nổi bởi vì ngoài họ hàng bên nội bên ngoại còn mẹ tôi, còn chú Nghị. Ngoài đám con cái cậu mợ tôi hay bắt nạt, hếp đáp anh em tôi còn bọn trẻ con ở bến đò Ðồng – đức dạy tôi buộc tổ sáo… Và mai mốt tôi sẽ chín, chín chẳng để trả thù ai đâu, nhưng chín để kể lại chuỗi ngày tháng anh em tôi nuôi con sáo.
Con sáo là niềm an ủi duy nhất, là niều kiêu hãnh duy nhất của anh em tôi. Trong khi chung quanh tôi, trẻ con nhà giầu nuôi sáo bằng lồng son, cóng sứ, thức ăn thì gạo trộn lòng đỏ trứng gà, nước uống thì pha sôm nhị hồng, sáo của chúng nó vẫn chết. Anh em tôi nuôi sáo chỉ có gạo trắng, nước lã, lồng tre mà sáo hót lại hót hay, sáo nói lại nói giỏi. Tưởng con sáo cũng nên kiêu hãnh. Với tình thương mến của anh em tôi, với cái lồng do chú Nghị đan, nó đã thành con sáo quý khác cả những sáo quý nhất trên đời.
Tính ra anh em tôi nuôi sáo đã lâu. Năm ngoái mẹ tôi buôn bán phát tài, tết nhất cũng đủ bánh trái, thịt ăn mấy ngày. Anh em tôi mỗi đứa có bộ quần áo mới, có tiền xu, tiền hào chơi đáo, chơi cò quay, có tranh con lợn treo tường, có long đình, tượng bụt chơi làm đình làm chùa. Giá nghe mẹ bán con sáo thì tiếc chừng nào. Năm nay hàng quán ế ẩm. Suốt mùa đông mưa lê thê, bến đò vắng khách. Mẹ tôi lại đau yếu luôn luôn, phải nghỉ ở nhà. Con sáo cùng chung nỗi buồn, biếng ca hót lười bay nhảy, nó quên cả lải nhải mấy câu nói em tôi dạy thuộc lòng.
Trời cuối tháng chạp mưa phùn rả rích. Gió bấc thổi vù vù. Rét thấu xương. Anh em tôi co ro trong ổ rơm, lồng sáo đặt bên cạnh. Mẹ tôi lại sốt từ hôm ông Táo lên chầu trời. Ba hôm nữa tết rồi mà mẹ vẫn nằm rên rỉ. Tôi lo ngại quá, tâm hồn thờ thẫn.
Em tôi sốt ruột vì trời mưa. Nhà chỉ còn gạo, mẹ tôi chưa sắm sửa đồ cúng. Gà vịt cũng chưa mua. Cho đến tối ba mươi, mẹ tôi lên cơn sốt nặng. Mẹ tôi rên hừ hừ. Ðắp hai cái chăn, hai cái chiếu, mẹ vẫn còn rét. Anh em tôi ôm nhau khóc thút thít. Em hỏi những câu quái gở khiến tôi rùng mình.
– Anh ơi! Liệu mẹ có chết không?
– Không, mẹ phải sống nuôi anh em mình thành người chứ.
– Sao mãi mẹ chả khỏi gì cả?
– Tại trời mưa lạnh, tạnh nắng là mẹ khỏi, em đừng lo.
Tôi nói dối em tôi tại mưa lạnh, thực ra mẹ tôi chẳng uống thuốc men gì cả. Con nhà nghèo, ốm no bò dậy. Tôi thường bị sổ mũi, ho mà có cần mời thầy lang đâu. Nằm vài bữa, trở dậy lại khỏe như cũ. Tôi tin thế nên đỡ lo.
– Dạo cha còn sống mẹ có ốm nặng không anh?
– Anh chả nhớ rõ.
Trưa nay, em ngủ nằm mơ thấy cha, em nhớ cha quá, ước gì cha sống lại…
Em tôi khóc to hơn. Tôi ôm em vào lòng, thương mến. Bên ngoài trời còn mưa lai rai. Ðêm cuối năm mù mịt. Anh em tôi lo lắng không dám ngủ. Lúc mẹ tung chăn chiếu, anh em tôi nhảy bổ vào ôm mẹ. Hơi nóng và mồ hôi sau cơn sốt thoát ra sưởi ấm anh em tôi giữa đêm trừ tịch. Mẹ tôi vuốt tóc em.
– Mai, ngủ thôi chứ con, mai dậy sớm mẹ mừng tuổi tiền mua pháo tép.
Em tôi nũng nịu:
– Con mua pháo ống lệnh cơ!
– Ừ thì mua pháo ống lệnh.
– Mới lại cái gương cho con sáo nó soi.
– Gớm cô ả vòi vĩnh mãi.
Mẹ tôi chiều con, mẹ nói hơi nhiều, giọng mẹ mệt nhọc. Tôi định hỏi mẹ cái gì, nhưng thương mẹ lại nghĩ không ra. Anh em tôi tắt đèn đi ngủ.
Sáng mồng một tôi dậy sớm. Em tôi ngủ mê mệt, tôi đắp thêm chiếu cho em ấm áp ngủ lâu. Mẹ tôi hình như đã đỡ. Mẹ nhìn em tôi, lắc đầu ái ngại. Dưới ngọn đèn lù mù, tôi thấy nước mắt mẹ tôi lăn tăn trên gò má xanh xao, khắc khổ. Mẹ tôi nói nhỏ :
– Hữu này, mẹ dặn con nghe nhé! Hôm nay đừng lởn vởn ngoài ngõ, đừng lấy tiền của ai cho.
Mẹ tôi dặn tôi bằng thừa. Cậu mợ tôi dạy tôi nhiều bài học độc ác, giả đạo đức quá rồi, tôi thèm thuồng gì mà ngửa tay ra để người ta nhổ bọt vào. Nhưng tôi phải đáp:
– Vâng ạ!
Giọng mẹ tôi đứt từng câu ngắn :
– Tại mẹ ốm… thành thử… tết này nhà mình… thiếu cỗ. Con nhớ… thắp hương… bàn thờ cha con nhé! Con lớn rồi, chả cần, chứ em con, ngày tết… không được miếng thịt…
Mẹ tôi bỏ lửng câu nói, ôm mặt khóc tấm tức. Tôi bỏ ra ngoài sân. Trời lạnh hẳn. Phía nhà trên, gia đình ông ngoại đang giết gà, vo gạo, thổi xôi… Chiều qua nhà ông mổ lợn. Tôi muốn lên chầu chực để may ra ông thương hại thí cho một miếng về ăn tết. Song tôi nhớ tới chú Nghị, tới những bài học làm người chú dạy tôi nên tôi lại thôi. Dường như hồi chú ghé đây để đan cái lồng sáo, chú nhìn tôi rồi gật gù, bao giờ chú cùng gật gù sau buổi dạy học:
– Cháu thông minh lắm, cháu giỏi lắm.
– Nhưng mẹ cháu nghèo.
– Hề gì, đói rách đâu phải là tội lỗi, cháu đừng buồn. Rồi ngày kia cháu sẽ lẻ loi, cháu sẽ thấy trong sự đau khổ người ta mới xét đoán mọi việc đứng đắn.
– Rồi cháu có sung sướng không chú?
– Chú không dám nói cháu sung sướng nhưng chú quả quyết cháu có tài, có nhiều tài…
– Thật hả chú?
– Thật chứ, song cháu chả nên quy lụy ai, quy lụy nó hèn con người đi thì rồi cái tài cũng đến xếp xó.
Chú ưa kể chuyện cha tôi và ngón sở trường âm nhạc: đàn thập lục. Chú bảo ngày ông nội đuổi cha tôi khỏi nhà, cha tôi không có đồng xu nào dính túi. Thế mà cha tôi gây dựng nổi đời cha. Tại cha tôi chết sớm chứ không thể nào cũng có ngày cha về làng mua đất dựng nhà. Tôi kém cha tôi nhiều quá, tôi chỉ biết khóc.
Lúc này đứng nhìn thiên hạ đón xuân, tôi nghĩ đến em gái tôi, nghĩ đến miếng thịt gà, thịt lợn hay thịt chim khi em tôi tỉnh dậy. Anh em tôi chỉ có mỗi con sáo. Con sáo nuôi bao nhiêu ngày mới biết nói. Chẳng lẽ tôi giết nó? Chẳng lẽ em tôi ăn cơm với muối ngày đầu năm? Năm nay em tôi mười tuổi, mười mùa xuân bay vụt qua, mười mùa xuân tẻ nhạt, buồn thảm chắp nối thành thời thơ ấu của em tôi. Mùa xuân trôi theo kỷ niệm, có khi nào níu lại được? Tôi không muốn em tôi lớn lên phải nghẹn ngào nhắc tới một trang chua chát, xiên lệch trong cuộc đời. Vậy thì tôi sẽ giết con sáo. Tôi nghĩ tôi biết buộc tổ, biết nuôi sáo, nuôi bằng cái lồng của chú Nghị thì sáo nào chẳng biết nói, biết hót. Dẫu con sáo này chết, tháng sau tôi buộc tổ sáo khác. Mùa xuân tàn rất nhanh, tôi có đàn sáo mới, tôi nuôi một đôi để chúng quyến luyến nhau cơ hồ anh em tôi, chắc em tôi sung sướng lắm. Ý tưởng ấy khiến tôi bớt se sắt, bớt tủi nhục. Tôi len lén trở vào xách cái lồng sáo xuống bếp. Trời còn tối, sáo không nhận ra tôi. Nếu nó chết thì nó oán hờn sự nghèo khổ và bàn tay tàn ác nào đó. Vong hồn cha tôi sẽ phù hộ tôi. Giết nó, tôi đau đớn vô ngần nhưng tôi phải thương em tôi hơn. Em tôi phải được ăn thịt sáo nấu su hào ngày mồng một tháng giêng năm mới. Chỉ vì em, tôi quên tất cả.
Tôi mở cửa lồng thò tay tìm con sáo. Nó nhảy trốn, móng chân nó cào vào tay tôi đau buốt. Cuối cùng tôi tóm nó. Nó kêu ai oán, từ xưa nó chưa từng kêu như thế. Nó giẫy giụa. Tôi vặn cổ nó chết tươi. Làm xong công việc tàn nhẫn đó, tôi nhóm lửa nấu nước làm lông. Tôi run run chặt dao trúng ngón tay. Máu tôi hòa cùng máu con sáo.
Tôi xào thịt với hành mỡ thơm lừng rồi đổ nước đun thật lâu. Trong khi chờ đợi, tôi gọt su hào.
Lúc ở bếp bước ra, trời hừng sáng. Tôi đem lông sáo và cái lồng giấu phía sau nhà. Tôi ngồi bệt xuống đất, ôm mặt khóc. Pháo nổ vang trời đất, chuông trống khua inh ỏi. Lòng tôi sôi bùng bùng, tan nát. Tôi nhớ chú Nghị, tôi nhớ cha tôi. Những người thân yêu có thể che chở cuộc đời mẹ con tôi đều bỏ đi cả. Bây giờ mùa xuân về, mẹ con tôi cô độc, nghèo nàn. Tôi đâu đớn trút nỗi buồn vào hai bàn tay non nớt, bóp bẹp cái lồng sáo. Niềm vui thơ ấu của anh em phần bị chết chóc, phần bị dúm dó, gẫy vụn. Tôi cứ ngồi tưởng tiếc. Mãi khi nghe tiếng mẹ gọi, tôi mới trở vào.
Mẹ tôi hỏi :
– Tại sao con khóc?
Tôi đưa vạt áo thấm nước mắt, trả lời:
– Thưa mẹ khói làm con cay mắt đấy ạ!
Rồi tôi mỉm cười, nhưng nụ cười gượng gạo ấy giấu sao nổi một tâm tư đang cuồn cuộn muôn vàn ý nghĩ. Tôi nghe tiếng mẹ thở dài. Tôi đánh thức em tôi dậy. Mẹ tôi mừng tuổi cho mỗi đứa hai đồng. Tôi tặng cả em. Em tôi sung sướng nhận ngay không hỏi lôi thôi như những ngày thường. Gió xuân vừa tạt qua đôi má thơ ngây của em. Tôi nói :
– Mai, đi rửa mặt rồi vào ăn cỗ em!
Em reo to :
– Có cỗ hở anh?
– Ừ, cỗ to lắm.
– Anh cúng cha chưa?
– Ðã.
Tôi nói dối em chứ ai lại cúng cha bằng thịt sáo. Em tôi chưa biết gì cả. Khi ngồi ăn, em mơ màng chuyện đâu đâu. Em khen thịt ngon. Bất chợt em hỏi tôi :
– Thịt gì đấy anh?
– Thịt chim.
– Anh mua à?
– Không.
– Thế ai cho, ông ngoại hở?
Tôi im lặng nghĩ câu trả lời. Em tôi tự nhiên buông đũa, đứng dậy, cuống quít :
– Con sáo của anh em mình anh ạ! Ta mừng tuổi nó chứ?
Thấy tôi rầu rầu không nói, đứa em gái sầu thảm của tôi ngây người đứng ngó. Và em chạy vụt ra sân ngơ ngác tìm kiếm xong lại chạy vô gậm giường? Chẳng thấy lồng sáo đâu, em hỏi:
– Nó ở đâu hở anh?
– Chắc trộm bắt mất rồi em ạ!
Em tôi thẫn thờ bước khỏi ngưỡng cửa. Lòng tôi rối bời. Nước mắt trào dâng lên, nhỏ giọt xuống bát canh su hào thịt sáo. Tôi cứ ngồi, nước mắt cứ rơi, lặng thinh như phiến gỗ. Tôi đợi em vào để xin lỗi. Tôi hối hận, tôi muốn chạy ngay ra ngõ gào khóc bi thương ngộ may có Phật hiện hình thì xin ước cho con sáo sống lại. Nhưng cõi đời tăm tôi của anh em tôi, Phật là chú Nghị, chú chết rồi, tôi ước nguyện gì đây? Mãi chả thấy em trở vào, tôi hoảng hốt chạy về phía nhà sau. Ở đấy có bộ lông sáo sũng nước và cái lồng tre chú Nghị đã đan cho em tôi. Em tôi ôm cái lồng vào tay thương tiếc. Tôi đi nhẹ tới gần em. Bước chân tôi run rẩy trên nền đất quê ngoại. Tôi khẽ gọi:
– Mai, em Mai…
Em không ngoảnh lại. Tôi biết em ghét tôi lắm. Em đứng dậy, vẫn ôm cái lồng, lững thững đi ra bờ ao. Tôi phải nói thế nào để em tôi hiểu tại sao tôi giết con sáo? Tôi toan giãi bày, nhưng khốn nạn, sự nghẹn ngào rình mò đúng lúc vít chặt lấy cổ họng tôi. Tôi chỉ còn biết ấp úng :
– Em ơi! Anh xin…
Tôi buông chưa dứt lời, em quay lại nhìn tôi, đôi mắt chớp mau. Bốn con mắt anh em tôi lúc ấy mờ đi dưới cái màn sám hối, đau thương. Bộ mặt đau khổ của tôi nói với em nhiều rằng tôi quý con sáo nhưng tôi yêu em. Em tôi chừng hiểu chuyện, em buông đôi tay. Cái lồng và bộ lông con sáo rơi xuống đất. Em chạy xô tới ôm lấy tôi, khóc nức nở.
Duyên Anh
Chị Năm ơi….!!!!!!!!!!
Bỏ nhà đi đâu mà..lâu thế..bà chị?!
À..à.., hay là..chị Năm “bày đặt”..giận..anh Năm, để..bếp núc lạnh tanh..”đóng cửa tuyệt thực”… nữa phải không?! hihihihihihi…
Anh Năm ơi!!!! Mau mau xách xe Mercedes xịn tìm chị Năm mau lên đi anh…bởi:
– Chị Năm đói…muốn.. “xỉn”…rồi….hihihihihihi…
Nhà văn Duyên Anh, ròm em chưa được dịp đọc nhiều truyện của ông, nhưng qua link “Hoàng Hải Thuỷ” ở nhà chị Năm dẫn, ròm em và Tuấn Anh có đọc..32 bài viết “Những tên biệt kích cầm bút” của nhà văn CTHĐ Hoàng Hải Thuỷ, cảm thấy khâm phục tinh thần của các ông “Biệt kích cầm bút”…này lắm!
Thi cử xong xuôi, ròm em sẽ đọc…Duyên Anh…
Đúng như Tín ròm nói đó chị Năm, trang nhà của chị dẫn links đến các trang khác thật là hay và giá trị; thường, khi đọc và còm xong ở trang nhà chị, còn thời gian, em thường hay vào những trang khác mà chị dẫn link để đọc..tiếp…
Trang nhà bác Hoàng Hải Thuỷ, em mới vào đọc vài lần, thấy bác ấy kể nhiều chuyện hồi xưa – miền Nam trước 1975 và thời gian bác bị tù đày sau 1975 – có nhiều chuyện và tư liêu thật hay, thú vị và lý thú…
À, em có còm hỏi và giới thiệu tác phẩm CÕI ĐÁ VÀNG của nữ văn sĩ Nguyễn thị Thanh Sâm với bác ấy, và thật vui…được bác ấy hồi đáp…đó chị Năm…hihihihihi…
Bận thi cử hơi căng thẳng, ít thời gian vào nhà chị Năm chơi được, thông cảm cho em nghen chị Năm.
Bây giờ em giải lao thư giãn một lát, đọc truyện của chị Ba giới thiệu đây…
Em đọc một lèo…hết truyện luôn!
Vâng, đúng như chị Ba giới thiệu: ” Một truyện ngắn rất cảm động…, giọng văn tha thiết, nhẹ nhàng và tình cảm…”
Tuy nhiên, đọc xong truyện này, riêng cá nhân em cảm thấy có 2 chi tiết chưa được…”tròn trịa”…cho lắm, đó là:
1/ Tác giả dùng và cho nhân vật chính cách xưng hô tiếng “CHA” trong truyện, hình như…không thật phù hợp với cách xưng hô theo phong thổ của người miền Bắc, là…”BỐ”!
2/ Đọc cái câu: ” Tôi vặn cổ nó chết tươi…” trong truyện, tự nhiên em có cảm giác…hơi rùng mình!
Nhân vật chính mới 13 tuổi, cái tuổi vẫn còn ngây thơ trong trắng, cho dù tác giả có xây dựng tâm lí nhân vật là “già dặn hơn trước tuổi”, nhưng thiết nghĩ, viết cho lứa tuổi thiếu niên đọc, mà tác giả dùng câu văn “rất tượng hình” này…thì quả thật, theo em, là hơi mang hơi hướm…bạo lực và độc ác…dù chỉ là…”vặn cổ một con chim!”…
Phải chi tác giả đừng xây dựng chi tiết này…, thì ấn tượng đẹp về truyện ngắn này sẽ lắng đọng nhiều hơn trong lòng độc giả, ít nhất là…em! hihihihihi…
Vài dòng cảm nhận khi đọc xong truyện, chị Ba chị Năm…thấy em có cái cảm nhận…”quái quái”…không vậy, hai chị kính mến?
Tuấn Anh:
Theo ý kiến riêng của chị:
1. Nhà văn dùng chữ CHA là đúng, không cứ gì phải là người Bắc, Trung hoặc Nam. Người ta thường dùng từ CHA MẸ là để nói đến hai đấng sinh thành ra mình.
“2. Em đọc lại những đoạn này:
Giết nó, tôi đau đớn vô ngần nhưng tôi phải thương em tôi hơn…Chỉ vì em, tôi quên tất cả….Tôi run run chặt dao trúng ngón tay. Máu tôi hòa cùng máu con sáo….
Mẹ tôi hỏi :
– Tại sao con khóc?
Tôi đưa vạt áo thấm nước mắt, trả lời:
– Thưa mẹ khói làm con cay mắt đấy ạ!”
Em thấy không, tác giả đã rất đau khổ khi phải giết con sáo làm thịt cho em ăn ngày Tết, vì nhà quá nghèo, mẹ lại bị bệnh, không có tiền sắm Tết. Thương em gái và không còn cách nào tốt đẹp hơn để lựa chọn, tác giả đã phải làm hành động nhẫn tâm đó.
Thôi, thư giãn giải lao “trò chuyện” với chị một lát, em rời nhà đây nghen…
Em và Tín ròm tranh thủ làm bài đêm nay cho xong, để lát nữa còn xem…đá bóng, đêm nay khai mạc Euro! hihihihihi…
Good night, chị Năm!
Thức chờ xem bóng đá, ghé vào thăm trang Phay Van.
Cám ơn Cô Nguyệt Mai, cô Phay Van.
Lâu quá rồi tôi mới đọc lại Duyên Anh…
Tôi cũng thế, đã lâu rồi mới đọc lại Duyên Anh…
Chợt nhớ thoang thoảng đâu đây những truyện mà một thời thiếu niên đọc đến mê đắm…Dzũng Dakao, thằng Côn, thằng Vũ, Chương còm….
Chị Nguyệt Mai và cô Phay Van, nếu có thể, thì sưu tầm và dẫn links giới thiệu những truyện của DA cho mọi người cùng đọc khi có thời gian, được chứ?
Mời bạn vô trang này để xem truyện của Duyên Anh nhé:
http://vnthuquan.net/truyen/tacpham.aspx?tacgiaid=140
Hình như Duyên Anh có làm thơ và sáng tác nhạc và vẽ nữa thì phải?
Nếu không phiền hai chị có thể tìm giới thiệu một chút ở các mảng sáng tác này của nhà văn Duyên Anh…cho phong phú entry hơn nữa?
Bác Phạm Sơn: những truyện mà một thời thiếu niên đọc đến mê đắm…Dzũng Dakao, thằng Côn, thằng Vũ, Chương còm…., Con Thuý, Bồn Lừa…
Để làm phong phú thêm cho entry này như lời đề nghị của anh Đinh Thành, NM mời các bạn vào những trang này để thưởng thức thơ và nhạc của Duyên Anh:
http://poem.tkaraoke.com/10149/Duyen_Anh/
http://hungvietsite.org/blog/2009/07/09/duyen-anh-nh%E1%BA%A1c-va-th%C6%A1-ph%E1%BB%95-nh%E1%BA%A1c/
http://www.nhipcauonline.com/listsearch-composerID-923.html
http://www.dactrung.com/Bai-tr-15232-Phong_Van_Ha_Huyen_Chi_Ve_Duyen_Anh.aspx
Bác Lãng Tử: Lâu quá rồi tôi mới đọc lại Duyên Anh… mà vẫn thấy hay, vẫn có được những cảm xúc như ngày xưa hở bác?
Phay Van: Vâng, những truyện hay, với lối viết hấp dẫn của Duyên Anh mà ai đã một thời niên thiếu say mê đọc, thì chắc chắn rằng nó sẽ không bao giờ phai mờ trong ký ức…dù rằng khi đọc lại, cảm xúc theo tuổi tác có thể không còn như hồi niên thiếu…
Nhưng, hể khi được nhắc đến nhà văn Duyên Anh, thì như cô và bác Phạm Sơn nói đấy…ai cũng tự nhiên nghĩ đến ngay những…Dzũng Dakao, Chương còm….
Ai cũng vậy, không cách nào mà…không nhớ được…
Bác Lãng Tử: Dạ, vì các nhân vật thiếu nhi đó gần gũi với tuổi thơ của mỗi người quá, phải không bác? Đấy là sự thành công của nhà văn Duyên Anh, các nhân vật của ông sống mãi trong lòng độc giả.
Nhân đọc lại truyện “Con sáo của em tôi” của nhà văn Duyên Anh, nói về chim, tôi cũng vừa đọc xong bài viết này của Bs Hồ Hải, thấy cũng thú vị, mạn phép copy về, mời mọi người cùng đọc, thử…suy ngẫm…
Thú Chơi Chim
Nghề chơi nào cũng lắm công phu, khi nó được con người nâng lên thành một nghệ thuật. Trong đó, thú chơi chim kiểng là cái thú của những nhà giàu thích điền viên an hưởng, xem những con chim trong cảnh cá chậu chim lồng thi thố tài năng tiêu diệt đồng loại đang sống tự do.
Để có cái thú chơi chim, đầu tiên phải có nhà giàu muốn an hưởng những lạc thú trần gian ngồi nghe chim hót và chọn chim để sập bẫy. Thứ đến là phải có chim mồi hót hay mà lại có số má dáng vóc bề ngoài đáng tin cậy, nhưng chịu sống cảnh cá chậu chim lồng, để dụ dỗ những con chim đang tự do bay nhảy, nhưng ngây thơ. Thứ đến là phải có sân chơi cho chim mồi tập hót. Rồi đến phải có rừng để bẫy chim. Và cuối cùng là những con chim đang tự do mà ngây thơ chưa biết thế nào là bẫy, thế nào là tự do, và thế nào là luật chơi của người chơi chim bày binh bố trận.
Đứng trên quan điểm kinh tế chính trị của Marxist, tất cả 4 thành tố để chơi chim – từ người chơi đến chim bị bẫy – đều là tư liệu sản suất. Nhưng người chơi là chủ sở hữu cả tư duy và hành động của cuộc chơi. Phần còn lại là vật sở hữu mà người chơi chim được quyền sở hữu, sử dụng, sang nhượng, bán chát, v.v…
Nên chim mồi, sân tập hót, vườn bẫy chim và chim tự do trong khuôn khổ bầu trời mà người chơi sở hữu, phải hiểu luật chơi để tồn tại.
Ngoại trừ chim tư do bay nhảy đang sống trong một khuôn khổ rộng, nhưng ngây thơ muốn tòm mò xem cái luật của thú chơi chim như thế nào để hưởng cảnh ao tù nước đọng. Phần còn lại, từ người chơi chim, đến sân tập hót và vườn bẫy chim đều đang sống trong một nhà tù tư tưởng và hành động, tự chuốt lấy cái khổ vào thân.
Người chơi chim đôi khi quên cả bản thân để lo nghĩ đến chuyện chăm sóc chim mồi, lo đến chuyện làm sao chim mồi hót hay, lo đến chuyện là sao bẫy đúng con chim tự do ngây thơ lớn nhất, đẹp nhất.
Sân tập hót phải làm sao cho đông chủ chơi chim ghé thăm, và nhiều chim mồi đến tập. Song quan trọng nhất là sân tập hót phải hót làm sao cho những con chim mồi ngày càng lên đẳng cấp và những con chim ngây thơ tự do bay nhảy tin sái báng họng là những con chim mồi không phải là chim mồi mà là bạn, đồng minh với chim tự do bay nhảy.
Vườn bẫy chim lo nghĩ làm sao cho nhiều chim bay nhảy tự do ngây thơ dập dìu sáng tối. Càng lôi kéo nhiều chim ngây thơ tự do càng tốt. Điều quan trọng nữa là, vườn bẫy chim phải làm bệ phóng sao cho khéo để chim mồi mà không phải là chim mồi. Đó là một nghệ thuật.
Cuối cùng, điều quan trọng là chủ sở hữu của cuộc chơi – người chơi chim – phải bày binh bố trận lôi kéo đàn chim tự do ngây thơ bằng chiêu đồng thanh tương hót (lên tiếng), tương hành (hành động). Dẫn dắt đám đông chim tự do ngây thơ hót theo chim mồi đến lúc sai luật chơi, là lúc con chim tự do ngây thơ bị sập bẫy.
Chim mồi và sân bẫy chim, vườn chim tập hót càng khéo thì con chim mồi và chiếc bẫy càng có tác dụng bẫy lâu dài. Cộng đồng chim tự do thơ ngây mà không có con chim sáng suốt để bảo ban thì tác dụng của vườn bẫy, sân tập hót và chim mồi tồn tại càng lâu, bẫy càng được nhiều chim.
Nhưng mỗi thời một khác, chim mồi giỏi nhất cũng chỉ dùng để bẫy được vài chuyến. Xong nhiệm vụ nó được đem treo góc nhà để hót chỉ cho một mình chủ nghe. Vì đã lộ diện cả 3: chim mồi, vườn bẫy và sân tập hót. Phải đổi sân, đổi vườn và đổi chim mồi.
Thú chơi chim đã có từ khi loài người hiện diện trên trái đất. Chiêu bẫy chim cũng chỉ có một chiêu duy nhứt, trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng hót và hành. Thế nhưng thời nào cũng có những con chim ngây thơ chết vì chiêu này, khi nó được người chơi chim soạn lại để bẫy chim.
Vấn đề đáng quan tâm là, chỉ có chim tự do bay nhảy là có sức mạnh vô biên, không bị trói buộc với đau khổ trần gian, nhưng lại không biết được sức mạnh của mình, và tự gieo mình cho những thành tố đang trong cảnh lồng chậu đưa vào cảnh chậu lồng!
Gần đây, có vài con chim mồi bỗng đến lúc người chơi chim cho phép câm tiếng hót, sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ bẫy được nhiều chim lớn và đẹp. Các sân tập hót và vườn bẫy chim vẫn còn hoạt động. Nhưng không hiếm con chim tự do bay nhảy vẫn chưa nhận ra đâu là chim mồi, đâu là sân tập hót và đâu là vườn bẫy chim.
Khi một thú chơi đã được nâng lên thành một nghệ thuật lãnh đạo xã hội thì, lúc đó chiếc bẫy giăng ra như thiên la địa võng, phần lợi nhuận cho các thành tố trong cái nghệ thuật đó cũng vô cùng. Làm người rất khó, nhưng cũng không khó khi biết phát huy sức mạnh của mình – tư duy khoa học – mà không bị kẻ khác lấy đi để dùng. Có lẽ đây là lần thứ n tôi viết về điều này theo một cách khác, và sẽ không bao giờ viết lại.
Nghệ thuật sống với hôn quân không phải là hèn sợ, hay quá khích manh động một cách cực đoan, mà là làm cho hôn quân thức tỉnh bằng tư duy khoa học.
Asia Clinic – 17h28′ ngày thứ Bảy, 08/6/2012
Cám ơn anh Lãng Tử đã chia sẻ những điều này:
Khi một thú chơi đã được nâng lên thành một nghệ thuật lãnh đạo xã hội thì, lúc đó chiếc bẫy giăng ra như thiên la địa võng, phần lợi nhuận cho các thành tố trong cái nghệ thuật đó cũng vô cùng. Làm người rất khó, nhưng cũng không khó khi biết phát huy sức mạnh của mình – tư duy khoa học – mà không bị kẻ khác lấy đi để dùng.
Nghệ thuật sống với hôn quân không phải là hèn sợ, hay quá khích manh động một cách cực đoan, mà là làm cho hôn quân thức tỉnh bằng tư duy khoa học.
Nhưng anh Lãng Tử ơi, Nguyệt Mai nghĩ vấn đề này cũng không đơn giản đâu. Làm sao hôn quân thức tỉnh được bằng tư duy khoa học, khi mà đầu óc của họ chỉ biết suy nghĩ một chiều, khi mà quyền lợi cá nhân của họ luôn luôn được đặt trước tiên trên mọi vấn đề khác?
Tuy cũng có phần chưa đồng tình với quan điểm của tác giả Hồ Hải ở phần cuối… như chị Nguyệt Mai.
Nhưng qua bài viết, quả thật tác giả Hồ Hải đã dùng cách ẩn dụ, để rồi đặt vấn đề phân tích một cách sâu sắc, làm người đọc liên hệ thực tế với các trạng huống đã diễn ra trong quá khứ cũng như hiện nay ở VN từ khi có đcs…, thì thấy rất đúng!
Một bài viết, đáng để suy ngẫm….
Bác Đinh Thành, cô Mai, cô Phay Van: Thấy bài viết có vài điều thú vị, đọc, đáng để suy ngẫm, nên copy về chia sẻ để mọi người cùng đọc và…trò chuyện…
Vâng, tôi cũng đồng cảm nhận như bác và 2 cô về bài viết này của Bs Hồ Hải, ở góc độ đọc thuần tuý, thì : bài viết phân tích, lập luận hay và sâu sắc…
Nhưng, đáng tiếc là phần kết, tác giả Hồ Hải lại đưa ra quan điểm…” sống thoả hiệp” với…hôn quân, thì rõ ràng là không thuyết phục lắm…
Tôi có cái cảm giác ngờ ngợ…hay là Bs Hồ Hải này…cũng là một trong những con chim mồi, trong kế hoạch mới “trăm hoa đua nở”…của các hôn quân chăng?!
Bác và 2 cô có cái cảm giác ngờ ngợ này, không vậy?!
Bác Lãng Tử: cảm ơn bác đã nói trúng… “tim đen” của em.
Ui chao! Không hiểu sao tối hôm nay nhà chị Năm, chị Ba, bác THT và nhà chị Tư Hà Linh…sao khó vào quá!
Út loay hoay cả 30 phút mà không vào nhà nào được…!
Chỉ có nhà chị Cam Li thì vào được, click vào trang liên kết ở nhà chị Cam Li…cũng chào thua!
May sao vào được lần này, nhưng cũng chỉ có vào được nhà chị Năm và chỉ “may mắn”..được 1 lần….
Út tranh thủ vào chơi một chút, không ngờ cứ loay hoay hoài, loay hoay mãi đến…hết giờ! Thế là đêm nay đành “ngậm ngùi luyến tiếc” gõ cái còm này…rồi lặng lẽ rút lui…vậy…các chị ơi…! huhuhuhuhuhuhu..
Cháu Bảo Vân nói đúng đấy Phay Van.
Hồi hôm tầm 21g, tôi vào trang nhà của cô cũng không được, giờ này cũng vẫn còn chập chờn, lúc được lúc không…
Sao thế nhỉ, hình như có lẽ…có ai ở nhà mạng…giỡn, hay tính ghé hỏi thăm sức khoẻ cô…thì phải?
WordPress bị lỗi sao rồi đó chị Năm ơi!
Thường thường, hàng ngày Út vào nhà chị Năm theo link này:
– 123hoang.wordpress.com/sach/cam-li-nguyễn-thị-mỹ-thanh/
Sáng nay Út mày mò mãi cũng chẳng vào được, hỏi Tín và Tuấn Anh…cũng vậy!
Út cố tìm..và chuyển sang link:
– https://123hoang.wordpress.com/cam-li-nguyễn-thị-mỹ-thanh/
thì vào được, nhưng chờ rất lâu!
Út thử click vào links nhà chị liên kết, thì hầu như nhà nào dùng wordpress…cũng không vào được, như: cua đồng, Hà Linh, Hoàng Yến, Hoàng Hải Thuỷ, Trà hâm lại, Trần thị Nguyệt Mai, Trần Hoài Thư….
– Chỉ có Dr. Nikonian và Tưởng Dung, thì vào được thôi…
Chị Năm xem lại sao…?!
BỚ LÀNG XÓM…..CHÁY…BIỆT THỰ!!!!!!!
Chị Năm, nhà..lá đâu mà..nhà lá! Villa biệt thự chớ bộ! hihihihihi…
Phen này..quỷ đỏ…băng minh râu…”chọc ghẹo”..chị Năm của ròm em rồi!!!! huhuhuhuhuhuhu…
Mấy bữa nay không vô được nhà chị Năm cũng như nhà chị Ba và bác THT, thấy bức rức ghê gớm đó!
Giờ này..ấy” mới cho biết link này… vào được, nhưng cũng chập chờn quá, chị Năm ơi!
Được rồi tụi em chia nhau copy những bài mà mỗi đứa…thích vậy!
chị Năm cũng…mau mau copy đi nghen…
À…, “lịnh” cho anh Năm làm phụ…cho ảnh khỏi thất nghiệp…đi bà chị…hihihihihihi…