Giới thiệu họa sĩ Đinh Cường
Đề nghị của hai em Tuấn Anh & Bảo Vân trong entry #41 & 42 ở Cõi Đá Vàng (Quà tặng) đã gợi cảm hứng cho Nguyệt Mai thực hiện trang này. Chân thành cảm ơn hai em. Và Nguyệt Mai cũng xin được tỏ lòng biết ơn đến họa sĩ Đinh Cường đã giúp cho nguồn tư liệu thật quý giá. Hy vọng nó sẽ hữu ích cho những ai hằng yêu mến tranh Đinh Cường muốn tìm hiểu về ông.
“Nghệ thuật là đời sống riêng biệt, hiếm hoi. Tôi đã vẽ trong mọi hoàn cảnh, nơi chốn. Không biết để làm gì? Có lúc gần như tuyệt vọng, đôi khi thấy mình được cứu rỗi. Và tôi lại tiếp tục vẽ, tiếp tục suy nghiệm…
Xin đừng bắt tôi giải nghĩa tranh. Nó hiện ra đó và tôi đã hụt hơi, mệt mỏi. Thế giới xa lạ được dựng lên từ một hồi ức hay một bắt gặp vụt đến, rồi loang dần trên mỗi khoảng không đen. Khoảng không mà tôi đã đối diện trong những ngày tháng sống chìm lỉm câm nín, mỏi mòn, xô dạt tôi về gần với hư vô, tiếng vọng bi thảm của một hồi chuông lạ. Xin ghi nhớ một góc hành lang, nơi tôi đã đặt giá vẽ, đêm nào mưa bão thổi qua hay cơn nóng của một mùa hạ sắp tàn. Nơi đó tôi đã mài nhẵn ý thức, ném từng vô vọng, đổ từng hơi thở xuống những khung vải vốn hiền từ. Mỗi bức tranh là một hơi thở. Và nó thành hình tức là tôi đã chết. Tôi trở lại cùng người làm kẻ thưởng ngoạn. Nhìn sự mới lạ như lần đầu tiên mới đến. Xin hãy cảm, chớ đừng bao giờ tìm hiểu.”
(Bày tỏ về hội họa của Đinh Cường)
(nguồn: http://bbqt.com/forum/index.php?/topic/4078-tranh-dinh-c%C6%B0%E1%BB%9Dng/)
*
Sơ lược tiểu sử:
Họa sĩ Đinh Cường tên thật là Đinh văn Cường, sinh năm 1939 tại Thủ Dầu Một.
Sống ở Sài Gòn, Huế, Đà Lạt.
1951-1957: Học sinh trường Trung học Pétrus Ký, Sài Gòn.
1963: Tốt nghiệp Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế.
1964: Tốt nghiệp Giáo Khoa Hội Họa Cao Đẳng Mỹ Thuật Gia Định.
1962, 1963: Huy chương bạc Triển Lãm Mùa Xuân, Sài Gòn.
1962: Giải thưởng Đệ Nhất Triển Lãm Quốc Tế Mỹ Thuật Sài Gòn – do Tòa Đại Sứ Trung Hoa
1963: Tranh dự Triển Lãm Quốc Tế Lưỡng Niên tại Viện Bảo Tàng Mỹ Thuật Cận Đại Ba Lê
1964: Triển Lãm với Tôn Nữ Kim Phượng, Trịnh Cung tại Phòng Thông Tin Sài Gòn
1964: Triển Lãm tại Washington DC, do nhà sưu tập James L. Brogdon
1964: Tranh dự Triển Lãm Mỹ Thuật Quốc Tế tại Tunis (Tunisie)
1966: Tranh dự Triển Lãm Mỹ Thuật Quốc Tế tại Tokyo
1968: Tranh dự Triển Lãm Mỹ Thuật Quốc Tế tại New Dehli
1967, 1969: Tranh dự Triển Lãm Mỹ Thuật Quốc Tế tại Sao Paulo
1968: Tranh dự Triển Lãm Hội Họa Việt Nam tại Washington DC, Toà Đại Sứ VNCH bảo trợ
1974: Tranh dự Triển Lãm South- East Asia Art Exhibition, Singapore
1965 – 1967: Giáo sư hội họa trường Nữ Trung Học Đồng Khánh, Huế.
1967 – 1979: Giảng dạy tại trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế
1989: Định cư tại Hoa Kỳ. Hiện sống tại tiểu bang Virginia.
Trong thời gian từ 1962 đến 1975, họa sĩ Đinh Cường đã triển lãm chung và riêng trên 20 lần tại các thành phố Huế, Ðà Nẵng, Sài Gòn, Ðà Lạt, Pleiku, Nha Trang. Sau 1975, ông cũng có nhiều cơ hội bày tranh riêng hoặc chung với các họa sĩ Trịnh Công Sơn, Bửu Chỉ, Đỗ Quang Em… tại Sài Gòn. Những cuộc triển lãm rất thành công tiêu biểu sau 1975 tại hải ngoại có thể kể:
– Tháng 2 -1990 tại McLean, Virginia USA
– Tháng 6 -1991 tại Georgetown Art Gallery, Washington DC, USA
– Tháng 9 -1991 tại Le Jardin du Boisé, Montréal, Canada
– Năm 1993 được Smithsonian Museum, Washington, DC chọn Triển Lãm An Ocean Apart.
– Năm 1994 tại Metro Gallery, George Mason University, Virginia
– Năm 2005 tại Viet Art Gallery, Houston, Texas
– Năm 2010 tại Annam Heritage, Paris
Ngoài hội họa, Đinh Cường còn rất thành công trong nhiều bộ môn khác. Thơ, tiểu luận về hội họa, hoặc hồi ký, tạp ghi về bằng hữu được đăng trên các tạp chí văn học nghệ thuật: Hợp Lưu, Văn, Văn Học, Thế Kỷ 21, Thư Quán Bản Thảo, Quán Văn,…
Những tác phẩm sau đây có sự đóng góp của Đinh Cường:
– Trịnh Công Sơn: Cuộc Ðời – Âm Nhạc – Thơ – Hội Họa & Suy Tưởng (nhà xuất bản Văn Hóa Sài Gòn, 2001)
– Hai Mươi Năm Văn Học Việt Nam Hải Ngoại 1975-1995 (nhà xuất bản Đại Nam, Glendale, 1995)
– Trịnh Công Sơn: Thư tình gửi một người (nhà xuất bản Trẻ, 2011)
*
Đỗ Long Vân viết cho lần triển lãm tranh sơn dầu Đinh Cường
tại Alliance française de Dalat, Noël 1965
Il fut un temps où c’était toute une histoire pour un home qui voulait s’exprimer adéquatement de se défaire du joug des vieilles règles. Quelles règles reste-t-il à défaire aujourd’hui? Tout est devenu trop facile en ces temps atroces où la politesse veut qu’on hurle avec les loups, où l’injure est un moyen de parvenir, où la folie a l’air de se vendre bien et où jusqu’à la révolution amuse et enrichit les riches et affame les pauvres qu’elle laisse toujours plus affamés. La peinture de Dinh Cuong, au milieu de tout ce tintamare frivole, étonne presque par son air de timidité.
Nut éclat. Aucune dissonnance. Une pâte sombre et dense, légère malgré cela, et qui chante comme de l’or. C’est un or nocturne dont toute la lumière est tournée vers l’intérieur. Cela ennuie tout d’abord, et puis l’on finit par aimer cette pudeur obstinée, qui, pour sembler sans audace, n’en est pas moins durement conquise. Il suffit d’ailleurs de regarder Cuong au travail et l’on voit que le charme simple et lisse qui séduit lentement en ses toiles. Jamais Cuong ne l’a atteint du premier coup, mais qu’il est l’aboutissement de longs essais où se conjuguent le hasard et l’on ne sait quelle fatalité. Ses toiles débutent toujours dans l’éclat. Cela commence comme une explosion de fleurs et, presque toujours, cela devient un océan de nuit bleue et noire, non la vieille nuit sanglante qui obsède la mémoire de son souvenir, mais la jeunesse du monde dont tous les trésors enfouis s’ éveillent pour illuminer de leur éclat fragile cette première nuit qui s’appellerait aussi bien l’aurore. Car voilà que du fond de la terre des lueurs nous viennent, que l’ espace s’entr’ouvre dans un envol d’acier, que des cristaux scintillent, tandis qu’au-dessus de l’abîme, des villes en dérive tentent d’aller ensemble…
On reproche volontiers à la peinture de Cuong de ne pas être une image de son temps. Il est vrai qu’il se donne dans l’abstraction avec plaisir. Qu’est-ce c’est pourtant que l’abstraction aujourd’hui, sinon cette absence au coeur d’un monde dévasté, et de laquelle, sous peine de choir dans le délire, il faut que chacun tente de faire son pouvoir? Naguère on en a suscité des monstres. Les monstres maintenant s’ennuient dans les musées et seule demeure l’absense, subtile et sans visage, qui menace l’homme de toute parts et l’assaille jusqu’en son coeur. Ah! Les heureuses époques où l’on avait encore à détruire! Aujourd’hui l’homme doit faire son oeuvre avec des ruines, la nuit, le désert. Cela est son malheur, mais l’espace infiniment ouvert devant lui est aussi la plus grande chance dont il puisse rêver. Sachons gré à Cuong de l’avoir tentée. Car l’audace qu’appelle cette aventure est peut- être infiment plus grave que beaucoup de nos vieilles folies. Un artiste pourtant n’a que faire de paraître audacieux. Il cherche tout comme chacun, et à tâtons, un juste accord entre divers matériaux que lui propose le monde, et au coeur de l’impossible où il est allé, il est admirable que Cuong a tout simple-construit quelques silhouettes de femme. Son art néglige le paysage et la nature morte et passe spontanément de l’abstraction aux figures humaines d’un réalisme grave qu’il éclaire de poésie. Nul souci chez lui de torturer la ligne, mais sur le bleu pâle d’une mer abstraite, soudain fémit le tendre dessin d’un corps nu. Pas de modelé. Nul soupçon de chair. Ce n’est qu’une épure encore, et telle, dans son idéalité, elle émeut avec la douceur du mensonge. Mais du mensonge, elle a aussi la monumentalité et cette grande femme debout, encore qu’infiniment naïve et flexible, surgit, dans sa matinale transparence, sur la mer calme, à peine tirée de l’espace qui l’entoure, comme le visage invraisemblablement humain de l’espoir. On peut appeler cela la Naissance de Vénus. Et à tout prendre, pourquoi pas? La femme est née, je veux dire l’homme, et it lui faut maintenant bâtir sa demeure. Un artiste n’a que faire d’exprimer son temps. Il le construit.
DO LONG VAN
*
Bửu Ý dịch
nhân Triển lãm tranh Đinh Cường tại Trung tâm văn hoá Đức, Sài Gòn 1967
Thời trước, đối với kẻ nào muốn diễn tả lòng mình trung thực mà cởi bỏ gông cùm những lề luật cũ, thật là cả một vấn đề. Ngày nay còn những lề luật nào phải cởi bỏ nữa? Tất cả đã hóa ra dễ dàng thái quá giữa các thời buổi tàn khốc này, thời buổi mà lễ độ bắt con người tru theo loài lang sói, lời thô lỗ là phương tiện để đi tới, cơn điên có vẻ cao giá và thậm chí cách mạng đi mua vui và thêm của cải cho bọn giàu và bắt đói bọn nghèo mà cách mạng làm cho đói mãi thêm. Tranh Đinh Cường, giữa cái bát nháo hư phù ấy, hầu như khiến người kinh ngạc vì vẻ e dè của anh.
Không rực rỡ. Không lạc điệu. Một chất màu ủ và quánh, mà vẫn nhẹ nhàng, và reo ca như vàng kim. Một thứ dạ kim với bao nhiêu hào quang quay trở vào bên trong. Điều này thoạt tiên bắt chán, cuối cùng ta lại đem lòng yêu mến cái e ấp tri quyết ấy, nó có vẻ như không táo gan, nhưng không phải vì thế mà không khổ công chinh phục. Phương chi chỉ cần nhìn Cường làm việc và ta thấy cái đẹp đơn sơ và bóng láng quyến rũ chầm chậm ở tranh anh, không bao giờ Cường đạt được liền ngay lúc đầu, mà nó là kết thúc của nhiều dò dẫm dài hơi, nơi kết liên của ngẫu nhiên và một tiền định nào đó không hiểu. Tranh của anh luôn khởi đi từ trong ánh rực rỡ. Bắt đầu như một vỡ òa của hoa, và hầu như luôn luôn, trở thành đại dương đêm xanh đen, không phải cái đêm cổ tích đẫm máu ám ảnh ký ức bằng kỷ niệm, nhưng là tuổi trẻ của trần gian với hết thảy kho tàng vùi chôn choàng dậy hầu soi tỏ bằng ánh sáng mong manh cái đêm đầu tiên ấy, cũng có thể gọi luôn là buổi lê minh. Vì chưng, đã đến với ta kia, từ cùng thẳm địa cầu, từng đợt sóng, không gian hé mở trong một vỗ cánh ánh thép, những mảnh thủy tinh nhấp nháy, trong khi bên trên vực thẳm, bao thành phố rắp tâm phiêu dạt theo nhau…
Thiên hạ tha hồ phàn nàn tranh Cường không phải là phản ảnh của thời đại. Quả có thế, anh thích thú hiến thân cho trừu tượng. Song, trừu tượng ngày nay là gì, nếu chẳng phải là sự vắng bóng một cõi đời đổ nát trong lòng mình, và để khỏi rơi vào mê sảng, mỗi cá nhân phải dụng tâm chế biến sự vắng bóng kia thành quyền hạn của nó? Trước đây không lâu, người ta đã từng khơi quái vật dậy. Bây giờ chúng ủ rũ trong viện bảo tàng và duy còn lại sự vắng bóng, tinh diệu và vô diện, tư bề đe dọa con người cùng là xô xát con người vào cùng tận tâm can. Ôi! Những thời diễm phúc độ nào trong đó con người vẫn còn có những cái gì để hủy phá! Nay con người buộc lòng dựng nghiệp bằng hoang tàn, bằng đêm, bằng sa mạc. Khổ cho nó là thế, nhưng không gian phơi mở vô tận trước mắt cũng là điều may mắn tối đại mà con người có thể ước mơ. Chúng ta hãy bằng lòng Cường đã bắt lấy dịp may. Bởi cái táo bạo mà cuộc phiêu lưu kia kêu đòi, nó muôn phần nghiêm trọng hơn nhiều thứ điên cuồng xưa cũ của ta. Tuy nhiên, người nghệ sĩ làm ra táo bạo mà chi. Nó giống mọi người nào khác, truy tầm mò mẫm một hòa hợp chính xác giữa những chất liệu khác nhau mà cõi đời đề ra cho nó, và giữa lòng thiên nan vạn nan nơi nó đi tới, đáng ca ngợi thay, Cường đã theo một con đường tắt, dựng nên vài bóng đàn bà. Nghệ thuật của anh lãng xao phong cảnh cùng tĩnh vật và vụt đi từ trừu tượng đến khuôn mặt người với một lối tả chân trang trọng mà anh chiếu rạng bằng thơ. Ở nơi anh, không có mối bận tâm dày vò đường nét, nhưng bên trên lớp xanh nhạt của biển trừu tượng, hốt nhiên gờn gợn nét vẽ tươi non của một hình người khỏa thân. Không đường nét nổi bật. Không bợn xác thịt. Chỉ một hình vẽ không thôi, mà như thế, trong ý tính của nó, nó truyền cảm bằng cái nhẹ nhàng của hư tưởng. Thế nhưng từ hư tưởng, nó cũng có cái hùng vĩ lâu đài và hình đàn bà thẳng người cao lớn kia, dù đang còn hồn nhiên uyển chuyển, đột hiện, trong vẻ trong suốt tinh sương, trên biển lặng, vừa mới tách ra từ không gian vây bọc, tựa hồ khuôn mặt phi nhân tính của hy vọng. Có thể gọi đó là buổi Chào Đời của Vệ Nữ. Mà ngẫm cho cùng, không phải thế sao? Người đàn bà đã chào đời, tôi muốn nói con người, và giờ đây nó cần xây đắp chỗ nương thân. Nhà nghệ sĩ diễn tả thời đại mình làm gì. Nó dựng nên thời đại.
Đỗ Long Vân
Bửu Ý chuyển ngữ
*
Bài TCS viết cho lần triển lãm tranh sơn dầu Đinh Cường
tại Đại Học Duyên Hải Nha Trang 1974
Ðã hơn mười năm, kể từ những ngày còn lang bạt cùng bằng hữu, những chuyến xe đò thoăn thoắt đi về, nối liền tiếng chim cao nguyên với loài hải âu vùng bể. Rồi lời sóng chưa kịp tan đã vội vàng nghe ra điệu suối. Kỳ thú như một cơn gió lăng loàn. Nhưng hôm nay gió phần nào đã đuối sức. Những hoa tươi lá nõn, giờ đây, đã hết trong tôi những ngày phồn thịnh. J’ai cueilli ce brin de bruyère – L’automne est morte, souviens- t’en. Sự tàn úa kia một phần vì cảnh đời bức bách, phần khác bởi chúng tôi đã khéo chiều chuộng thời gian.
Có một kẻ lì lợm đam mê kỷ niệm. Nơi tâm hồn hắn, tôi sững sờ bắt gặp đứa bạn trẻ trung ngày xưa. Trên mảnh đất riêng tư, âm vang hơn mười năm kia vẫn còn tươi tắn. Nếu biết khóc hãy yếu lòng vào những phút này, nơi mà lòng ngưỡng vọng còn nguyên vẹn về một đóa quỳ, một loài chim lạ, một con đường hiu hắt sương mù…
Ðinh Cường chính là kẻ không chịu lãng quên đó. Cường vừa ra đi vừa ở lại. Uống chén rượu hôm nay mà nhớ chén rượu ngày xưa: ” nhớ không Sơn rượu chiều Ðơn Dương, bạn cùng ta uống cạn…” Biết trở về cũng là một cách tri ân những hội ngộ trong đời.
Có người họa sĩ quá cố nói rằng: Trước khung vải tôi mãi mãi là một đứa bé. Trong Ðinh Cường cũng có một thứ hoàng tử bé suốt đời song hành với hắn. Khi tôi cầm đàn hát cho Cường nghe về cái cội nguồn kia của sông bể: “…Từng lời bể sông nghe ra từ độ suối khe…” – thì lúc bấy giờ, tôi biết rằng chú hoàng tử bé trong Cường cũng đang sửa soạn trở về rong chơi trên những núi đồi, phố thị của quá khứ.
Rong chơi là một thứ kinh vương giả trong tâm hồn Ðinh Cường. Cứ lên đường, dù cao nguyên dù biển, là đã nghe thấy trong Cường vang lên một tiếng reo vui mãn nguyện. Ði không chỉ là sứ mệnh của đôi chân, mà đi, với Cường, là lòng ngưỡng vọng linh thiêng về một tiếng gọi. Tiếng gọi của một thế giới tự mình tìm thấy từ những ngày còn trẻ trung. Tìm thấy và nhớ mãi. Nỗi nhớ ấy như một dòng suối ám ảnh, bức bách, chỉ chờ một cơn bão để biến thành sông, thành biển, là đôi chân tù túng lại lơ đãng thong dong lên đường. Ði để nhận ra một cách buồn bã những gì thiên nhiên đã đánh mất mà mình vẫn còn lưu giữ lại trong tranh.
Tôi là người khách vãng lai thường trực của Atelier Ðinh Cường. Ðêm cũng như ngày. Thế giới tranh của Cường đối với tôi không có gì xa lạ, bởi vì chúng tôi đã cùng sống trong thế giới ấy từ những ngày lòng chưa hề vướng bận về một tiếng thở dài.
Trên những phím đàn dương cầm yên tĩnh trong Atelier của Cường, tôi vẫn nghe ra mỗi ngày những âm thanh xưa cũ bay la đà trên những núi đồi hoa lá, tháp chuông, trong mắt, trong tóc thiếu nữ, trong những màu sắc nóng lạnh của những bức tranh tuy hôm nay mà cũng là của những ngày xưa nữa.
TRỊNH CÔNG SƠN
7-1974
*
Bây giờ, Nguyệt Mai mời các bạn nhẹ bước vào thế giới tranh của họa sĩ Đinh Cường để cảm nhận, bạn nhé!
CHÂN DUNG
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
*
.
.
.

BIẾN KHÚC THÁNG 11- SƠN DẦU TRÊN BỐ- 24 X 36 IN- ( Tranh mới, sẽ bày tại VAALA , California 17 March 2012 )
*
.
.
.
.
.
.
.
(nguồn: Tư liệu của họa sĩ Đinh Cường)
*
Theo một ý kiến của bác Lãng Tử, xin phép đưa thêm một số tranh họa sĩ Đinh Cường vẽ thi sĩ Bùi Giáng (copy từ internet):
Bùi Giáng trong mỗi sát na. (Sát na là thuật ngữ nhà Phật hay sử dụng, chỉ đơn vị ngắn nhất của thời gian. Sát na chỉ thời gian chớp nhoáng của mỗi biến đổi).
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
Tuyệt, một hoạ sĩ tài hoa!
Trong loạt ảnh các bức tranh mà entry này giới thiệu, cá nhân tôi cảm, và thích ngắm bức cuối cùng “SEN MÙA HẠ”, với màu nóng hoạ sĩ dùng thật đầy khát khao cháy bỏng…
Giải thích ư? Ừ, thì thôi cũng cứ nói “theo”… như hoạ sĩ vậy:
– “Xin đừng bắt tôi giải nghĩa tranh…”
Một thiên tài, tượng đài thơ của VN là thi sĩ Bùi Giáng.
Thi sĩ thiên tài “điên” này đã có nhiều tình cảm sâu đậm với Hs Đinh Cường.
Chính tay Thi sĩ đã chép tặng Hs một bài thơ, với dòng thủ bút:
” Chép tặng Đinh Cường Đại Ca – Saigon 89 ”
” Đi về với gió du côn
Mở giông bão xuống cõi tồn sinh phai
Mép rìa vòm cỏ hương bay
Mở trang nhảy múa trên ngày phù du
Ấy ai lăn lóc trầm phù
Ấy người dặn ngọc thiên thu thề vàng
Đi về gót ngọc thênh thang
Mở vô lượng vũ trụ càng càng thêm. ”
Tôi có một chút “lấn cấn”, nếu được, cô Nguyệt Mai vui lòng có thể hỏi Hs Đinh Cường…giải thích:
1/ Thi sĩ Bùi Giáng sinh năm 1926, còn Hoạ sĩ Đinh Cường sinh năm 1939, như vậy câu viết tặng trong bài thơ, với thủ bút “…Đinh Cường Đại Ca ” có “ý sâu sắc”…gì không?
2/ Tựa đề của bài thơ.
Chỉ là chút “lấn cấn”, hỏi, để cho hiểu rõ hơn thôi.
Cám ơn cô Mai trước nhé.
Cám ơn bác Lãng Tử đề nghị và Phay Van post chùm ảnh tranh ĐC vẽ Bùi Giáng.
Xem chùm ảnh Hs Đinh Cường vẽ Ts Bùi Giáng trong mỗi sát-na, ta thấy hoạ sĩ như nắm bắt được cái thần của thi sĩ trong mỗi sát-na.
Xem và cảm ở khía cạnh cảm xúc này, bởi, thi sĩ Bùi Giáng cũng đã từng tự vẽ chân dung mình qua bài thơ thiền sau, và chắc là Hs ĐC đã “lĩnh hội” hết ý tứ của bài thơ thiền này của thi sĩ, đấy chứ!?
” Hoặc rằng người cũng là tôi
Hay là tôi cũng là tôi như người
Ấy rằng tinh thể đười ươi
Lời rằng quyết tiệt và tươi vui và
Ấy rằng một cũng là ba
Là hai mai một, mốt là hôm nay ”
” Bùi Giáng thay Khỉ bằng..Đười ươi, tạo ấn tượng mạnh hơn vì đười ươi hay cười. Đó cũng là hình ảnh nghệ thuật Bùi Giáng tự vẽ chân dung của chính mình ”
( Bùi công Thuấn )
Anh Lãng Tử và Phay Van:
Nguyệt Mai có mang thắc mắc của anh đi hỏi họa sĩ Đinh Cường thì được ông cho biết: “Đại Ca là chữ Bùi Giáng hay dùng để gọi anh em bạn bè vậy thôi. Không mang ý nghĩa gì cả .Vui thôi mà”.
Mong anh hài lòng với câu trả lời này.
Vâng, cám ơn cô Mai nhiều, vì đã hỏi giúp để giải đáp cái “lấn cấn” của tôi nhé.
Và cũng cám ơn cô Phay Van đã gõ chép tặng thêm bài thơ “Chào Nguyên Xuân” của thi sĩ Bùi Giáng.
Cá nhân tôi cũng rất thích thơ của Bùi Giáng cô Phay Van ạ.
Và cũng với cái tình cảm sâu đậm, Hs Đinh Cường cũng đã vẽ rất nhiều tranh về thi sĩ Bùi Giáng, tôi đã có từng xem một trang trên mạng, có post ảnh tranh chân dung của thi sĩ Bùi Giáng qua nét cọ của Hs Đinh Cường – nếu tôi nhớ không lầm thì khoảng 15 bức -, trong đó tôi thích nhất một bức, bức này theo tôi, thì Hs Đinh Cường qua nét cọ xuất thần, đã lột tả được tất cả thần thái của thi sĩ thiên tài “điên” họ Bùi…
Cô Mai và cô Phay có thể tìm được bộ ảnh tranh chân dung thi sĩ Bùi giáng này, post lên không nhỉ?
Tôi cũng sẽ cố nhớ để tìm lại trang này sau…
Có thế chứ, thật là thú vị!
Cám ơn cô nhé.
Ui!!!! Út mới đi học về mệt quá chị Ba, chị Năm ơi!!!!!
Nhưng vào nhà, mới xem lướt qua entry này, út cảm thấy như..hết mệt!!!!! hihihihihihi…
Vì, Út chợt hiểu, vì sao entry trước hai chị “bí mật” nói cám ơn Út..
Út cám ơn hai chị nhiều, vì đã ưu ái chú ý đáp ứng những đề nghị “lung tung” của nhóm “kiến quậy’..tụi em nghen…hihihihihihihihi…
Dạo này bài vở nhiều quá, nên Út chỉ dám tranh thủ vào nhà chơi chút chút..thôi nghen chị Năm.
Kiến thức về hội hoạ thì Út..mù tịt!!! Ngắm tranh, tuy Út không hiểu hết ý mà tác giả muốn diễn đạt, nhưng trong lòng Út vẫn rất thích ngắm xem tranh, loạt ảnh tranh này Út thích 2 bức:
1/ Bức “Từ vườn khuya bước về”: cảm nhận của Út: Nỗi cô đơn trong đêm của người thiếu phụ khi vắng..chồng – vì tù đày -, những mảng màu đỏ bao quanh thiếu phụ như là đám mây đầy máu “hắc ám” bao quanh cuộc đời thiếu phụ!!!!
Cảm nhận này xuất phát từ một ý chợt loé lên trong Út, khi nghĩ về cặp vợ chồng:
Dương Hà – Cù Huy Hà Vũ. ( chị Ba, chị Năm và Hs ĐC đừng mắng Út..đó nghen! )
2/ Bức ” Nguyện Cầu” : cảm nhận của Út : Tâm nguyện cầu cho đất nước VN, thoát khỏi hoạ
độc tài, tham nhũng, làm điêu đứng người dân thấp cổ bé họng, cũng như mong nhà nước đừng có dã tâm “dâng nước VN”…cho nước lạ!
HIhihihihihihihi…
Ủa!!!! Sao chị Năm..”cừ”..Út dzậy!!!!!????
Mắng Út “chính chị” hoá..hội hoạ, phải không??? hihihihihihi…
Thế thì, bây chừ Út “chơi” cảm nhận thứ thiệt – ở còm dưới – nghen…
NĂM BÀI THƠ VỀ HỘI HOẠ JAMES BROWN
( Trong Tahar Ben Jelloun: “Cinq poemes sur la peinture de James Brown” – Nguyễn Đăng Thường dịch – )
I/
Cây là một suy tư
Có khuôn mặt nhăn nhó
Sự xuyên qua các dấu hiệu
Của một câu chuyện đã trút bỏ thời thanh xuân
Cùng với những huy hoàng của nó.
Màu sắc đã tẩm ký ức
Và đang bước xuống cầu thang của chữ
Cho tới lúc thể hiện
Khuôn mặt hiển nhiên
Đó là bàn tay là sự chói loá
Ý nghĩa
Sự có mặt xa hơn sự tương tợ
Trong rãnh sâu của âm tiết
Mãnh vỡ của những giấc mơ
Nuốt những chiếc lá bẩn của mùa đông.
II/
Một ý tưởng trên mây
Cũng tựa như một khuôn mặt hướng lên trời
Bụi rơi trên những nguyên âm của nghi ngờ
Kia và nọ
Như thịt bị xoá
Bóng tối không còn thân hình
Luồn lách giữa những vật trắng của đêm
Bị kết liễu bởi tình yêu cô độc
Mây đập vỡ cái bề ngoài
Và con mắt mở
Trên màu xanh của vắng xa.
III/
Bàn tay tớp xa vắng
Để lại những vết chim bị thương
Sự hấp hối vươn lên chống cái chết chao đảo
Máu hay màu
Đang rịn trên thân cây
Hay chỉ là một khuôn mặt do lưu đày mơ tưởng?
Một ẩn hiện trong cái gương cũ
Nơi thời gian để lại chút cát
Gỉ của sét và bọt nước lạnh
Sự hao mòn được báo trước
Của một kỷ niệm đánh lạc chổ ở.
IV/
Gió đã thổi qua trên tấm khăn liệm của những kẻ bại trận
Dưới tảng đá là một cuộc đời khác
Hôn lễ vắng mặt
Nơi mà nỗi đau tự nới rộng
Chỗ ngụ tối hậu của ngôn từ
Trái đất rung bật vì tiếng cười và kinh ngạc
Và con thú hốt hoảng lồng lên
Khi ở đàng xa
Một người đàn ông và một người đàn bà
Giao hợp trong nghĩa địa
Cơn gió của ngày trở về
Viết sự bơ vơ…
V/
Lang thang là con gái của đêm
Khi muộn phiền khua động những trái tim
Và linh hồn lê chân trong hậu xứ
Cây cọ kia chỉ là kỷ niệm
Của một cuộc đời rộng lớn
Mỏi mệt vì giấc mộng buồn
Nó đào bóng nó trên đá cũ
Như một tiếng thở than vô vọng
Đêm trang bị bóng tối, biển, sóng, gươm và sao sa
Đêm ảo giác cuồng nhiệt
Ăn lấn rừng, màu xanh của trời
Và những im lặng dày cộm của vĩnh hằng
Như dã thú dấu móng vuốt
Trăng lạnh lẽo và buồn bã
Trăng hấp hối
Rình rập những kẻ bị mất ngủ…
( Cinq poemes sur la peinture de James Brown – trong Tahar Ben Jelloun )
( Nguyễn Đăng Thường dịch )
Chị Năm lại chơi..”luận điệu tuyên truyền”..nữa rồi!!!! hihihihihi..
Loạt tranh hoạ sĩ ĐC vẽ thi sĩ BG thật độc đáo!
Nhưng, nghe như đâu là hoạ sĩ đã bán một số bức tranh này, ở một cuộc triển lãm tranh nào đó ở Saigon thì phải?
Tin này tôi chỉ nghe loáng thoáng, có bác nào biết chính xác, xin chia sẻ lại với?
Sao hoạ sĩ lại bán những bức tranh mà hoạ sĩ đã vẽ kỷ niệm với thi sĩ BG nhỉ?
Ước gì có được vài lời của hoạ sĩ ĐC…giải thích!?
Anh Phạm Hoàng Trọng và Phay Van:
Xin chia sẻ với các bạn bài báo này để trả lời cho câu hỏi của anh Trọng:
http://thethaovanhoa.vn/133N20110907085747910T0/dinh-cuong-dat-hang-tranh-ve-bui-giang.htm
Cám ơn cô Mai đã chia sẻ lại thông tin rõ ràng, cho câu hỏi của tôi nhé.
Anh Phạm Hoàng Trọng và Phay Van:
Cũng xin chia sẻ với các bạn điện thư của họa sĩ Đinh Cường mà Nguyệt Mai mới nhận được sáng nay:
“Cám ơn chị và trang web Phay Van được các bạn xem với nhiều ghi nhận, ý kiến. Thật là tốt.
Tranh được hạnh phúc khi có người treo, thích thì mới treo, và BG cũng vậy. Để cho người sưu tập giữ. Có một người Pháp ghé gallery Tư Do mua và lấy đi ngay …
Bùi Giáng đi khắp phương trời là vui .Tôi chỉ giữ một số không bán …”
Thân chúc anh và cả nhà ngày cuối tuần vui vẻ.
NM
Qua còm của chị Ba, vậy là trang nhà của chị Năm hân hạnh có hoạ sĩ Đinh Cường ghé thăm!
Vậy là trang nhà của chị.. “nhất” rồi đấy nhé!
Vì, hôm trước BV có còm: ( còm # 51, Cõi đá Vàng – quà tặng – )
” Và biết đâu.., trang nhà của chị Năm..có cơ hội hân hạnh đón được..HS Đinh Cường..ghé thăm..với vài dòng còm thân tình đầy giá trị.., như trang nhà chị đã từng có nhiều khách quý ghé thăm: Nhà văn Trần Hoài Thư, nhà văn Cam Li Nguyễn thị Mỹ Thanh, thi sĩ Hoàng Lộc, cũng như chị Ba nhà thơ Trần thị Nguyệt Mai..”
Phay Van: Chị đã chuyển lời thăm hỏi của em đến họa sĩ Đinh Cường. Ông gởi lời cám ơn em.
Dạ, em cảm ơn Chị.
Chị Ba kính: Dạ, em kính cám ơn chị Ba đã nhớ tới lời đề nghị của em và để tâm thực hiện entry này ạ.
Ngắm xem tranh của ông, đặc biệt – không hiểu sao – em rất thích sự phối màu hết sức tinh tế trang nhã, cùng nét vẽ rất bay bướm nhưng cẩn trọng..,tạo cho em cái cảm giác dìu dịu, nhẹ nhàng khi ngắm xem, chẳng hạn những bức:
1/ Chim trốn rét
2/ Môi mây
3/ Nhà thờ đồi núi ( entry này chị Ba và chị Năm không có post )
4/ Phố lên đèn ( – nt – )
5/ Trăng, sao và đá tảng ( – nt – )
……v.v……
P/s: Nếu tìm được 3 bức tranh ( 3, 4, 5 ), hai chị có thể post vào còm này của em, được chứ hai chị?
.
tranh Đinh Cường: Nhà thờ đồi núi, sơn dầu trên bố, 48 in x 48 in
.
Đinh Cường- Phố lên đèn, 2011, sơn dầu trên bố, 20 x 32 in (51 x 81 cm), 2 tấm ghép lại
.
TRĂNG, SAO và ĐÁ TẢNG, Sơn dầu, 25 x 50 in. Đinh Cường, 4-2010
Em cám ơn chị Năm đã tìm 3 ảnh tranh và post vào còm của em nghen.
Kiến thức về hội hoạ thì em có biết tẻo teo gì đâu, nhưng không hiểu sao, em lại rất thích ngắm xem tranh! chị Năm biết không, em đã lục tìm và ngắm xem tất cả tranh của các hoạ sĩ post trên trang Tiền Vệ rồi đấy, có nhiều lắm chị Năm ơi…xem đến mê mẩn luôn đó chị!
Tuấn Anh giỏi. Vậy là em có năng khiếu trong thưởng thức hội hoạ đấy chứ. Chị nhớ trước đây em có hỏi về bức tranh của chị Đinh Lan, và đã thấy em có vẻ đặc biệt.
Về thơ, em cũng thích bài thơ này của Hoạ sĩ ĐC, và ông có vẽ một bức tranh về nhân vật nữ trong bài thơ có tên viết tắt là..” Nh… ” : Một khuôn mặt thiếu nữ trắng sáng hồng quý phái, với mắt mở to quyến rũ đến mê hồn, nổi bật thật trang nhã trên một nền đen của bối cảnh..!
Điểm mà em chú ý, là bài thơ sáng tá lúc đó hoạ sĩ mới chỉ..25 tuổi, còn bức tranh mang tên: ” Chân Dung T. Nh… Để Nhớ Đà Lạt “, thì không biết hoạ sĩ vẽ năm nào?
Chị Ba và chị Năm có biết?
*
VĨNH VIỄN
Chân dung T. NH. Để nhớ Đà Lạt- Sơn dầu trên bố, 24×30 in. Đinh Cường
Anh vẫn trở về đêm khuya thắp hàng bạch lạp
Tách nước trà nguội như căn phòng có nhiều vết loang
Anh đồ lên thành khuôn mặt em hai mắt to đen
Là Nh… với chiếc trâm cài lên tóc
Con đường buổi chiều là tấm thảm
Anh đưa em về với tiếng hát của Trang
Sương mù vữa trên dãy núi xa còn lại một tí mặt trời
Sáng dịu như màu áo dài xanh non em phơi rồi để quên
Là Nh… với dáng vai gầy bắt được
Làm sao anh nói ra lời lẽ giản dị như ca dao và tình yêu
Hồn nhiên như rừng núi, hồn nhiên như hơi thở em
Anh lắng nghe bằng tiếng tim
Là Nh… với đêm dài mộ huyệt
Cho anh gọi em một lần rất nhỏ như phi lao
Như tiếng sao vỡ nửa khuya
Em ngửa mặt cười nghe lệ rơi
Là Nh…với bản Serenata buổi chiều buồn hơn bao giờ
Là Nh…với niềm sầu đau vĩnh viễn…
( Đinh Cường – 1964 )
Tuấn Anh và Phay Van:
Chị có lời khen hai em đã tìm được bài thơ và bức tranh tuyệt vời này mà chị trước đây chưa có dịp đọc cũng như xem.
Họa sĩ Đinh Cường cho biết: “Bức tranh vẽ T. Nh để nhớ Đà Lạt năm 1974 khi cô giáo T.Nh. của trường Nữ Trung Học Thành Nội Huế đi gác thi ở Đà Lạt .”
“Bật mí” với hai em, cô T. Nh trong hình là bà xã của họa sĩ ĐC đấy.
Chị Ba, chị Năm: Em rất vui khi được chị Ba..khen!
Em cám ơn chị Năm đã tìm và post ảnh tranh “minh hoạ” của bài thơ Vĩnh Viễn, em cám ơn chị Ba cho biết năm hoạ sĩ vẽ bức tranh ạ.
Hai chị biết không, xem ảnh bức tranh cô T. Nh…này, tự nhiên em chợt liên tưởng và nghĩ đến ngay tức khắc chân dung của..chị Cam Li đấy!
Không tin, hai chị ngắm xem lại.. dáng và góc hướng nhìn của tấm ảnh chị Cam Li chụp mặc áo dài trắng ở các entries trước..xem sao!
Đừng mắng em đó nghen hai chị, vì đó là cảm giác và cảm xúc thật của em đó!
Phải thừa nhận là mình rất dốt đặc về hội họa, nhìn vào bức tranh chỉ thấy xanh đỏ tím vàng mà thôi ! Chỉ biết phân biệt vẽ giống và vẽ không giống chứ những bức tranh kiểu như Picatxô thì chịu chết – cứ như nhìn vào bức vách ý !
Bác Trà hâm lại: Chào bác,
Tôi cũng thế bác ạ, cũng “ù ù cạc cạc” về lĩnh vực hội hoạ này bác ơi!!!!
Nhưng, nhân chủ đề entry về hội hoạ của Hs Đinh Cường mà cô Mai và cô Phay giới thiệu.
Xin được chia sẻ lại cùng bác và cả nhà một bài viết – khái quát -, mà khả dĩ người “ngoại đạo” về hội hoạ như chúng ta, khi đọc, cũng phần nào… có chút chút…khái niệm về nó:
Gõ google: ” Có bao nhiêu trường phái hội hoạ? “
Chúc bác Trà và cả nhà cuối tuần vui vẻ nhé!
Bạn Trà Hâm Lại, anh Công Thành và Phay Van,
Cám ơn các bạn đã chia sẻ. Nguyệt Mai nhớ có lần đọc được ở đâu đó, MC Nguyễn Cao Kỳ Duyên nói cô đi học vẽ không phải để trở thành họa sĩ nhưng để có thể cảm nhận được khi có dịp được thăm các phòng triển lãm tranh.
Nguyệt Mai cũng xin chia sẻ với các bạn bài viết của anh Nguyễn Việt Hùng về bức tranh “Rừng Câm” mà Phay Van đã post ở trên:
RỪNG CÂM- SƠN DẦU TRÊN BỐ- 40 X 40 IN
RỪNG CÂM
Xem tranh không cần người giảng giải, cho dù đó là tranh trừu tượng, nếu có chút kiến thức về hội họa hiện đại và hội họa đương đại thì sẽ cảm nhận dễ dàng và thích thú nhiều hơn. Trong hàng trăm, ngay cả hàng ngàn cách vẽ trừu tượng, không khó để phân biệt đâu là những họa phẩm tầm thường, đâu là tác phẩm lạ đẹp. Nhưng đối với một sáng tác trừu tượng độc đáo thì khó tìm ra, ngay cả khó nhận diện, đó là lý do của bài viết này. Tác phẩm Rừng Câm, tranh sơn dầu của họa sĩ Đinh Cường là một chứng cớ, tác phẩm có kích thước vuông 40 x 40 in (102 x 102 cm), hoàn thành vào tháng Hai năm 2003. Màu sắc họa phẩm gần như đơn điệu của sắc đen xám, thoạt nhìn như là kết quả của hai màu chính; đen và trắng, lợ lợ đâu đó một số tảng màu phụ của sắc xám xanh, xám nâu cam,…vài vết nhỏ, màu mạnh nguyên thủy của đỏ, trắng và đen. Hội họa Đinh Cường thường được cấu trúc bằng một số ít đường ngang, như khoảng không gian cuối trời trong họa phẩm, và nhiều đường thẳng đứng. Đường ngang chân trời tạo nên cảm giác an bình, nhưng những đường thẳng dọc, đưa đến cảm giác của một sự sắp sửa chuyển động; có thể là một thay đổi nhẹ nhàng, hoặc một tiềm lực có thể làm nổ tung. Trung tâm họa phẩm là một hình tượng gây cảm giác kinh hoàng: một người thắt cổ, hoặc xúc động: Chúa đóng đinh trên thập tự giá. Khối vệt đen trên hơn nửa khuôn mặt, tạo hình nổi như trong không gian ba chiều, đồng thời gây ấn tượng khuôn mặt gục xuống của người chết, theo định luật trọng lực. Một họa phẩm hai chiều (2D) trên mặt phẳng của vải, mà đã gây được ấn tượng không gian ba chiều (3D) và trọng lượng của vật thể. Nhưng thể tam giác nhỏ màu đỏ tươi, đối diện với khuôn mặt cuối xuống, đưa tôi một ý tưởng khác; khuôn mặt cuối xuống không còn là vật thể chết, chịu chi phối của trọng lực, mà là thể sống, chủ động ngắm nhìn vệt đỏ như một cuộc đối thoại. Hình như, một cách mơ hồ, nhưng mãnh liệt, tôi tin tưởng vào cảm nhận; đây là tác phẩm tác giả đối diện với nỗi cô đơn, niềm tuyệt vọng, và cái chết. Là một tuyên ngôn của họa sĩ Đinh Cường, cả cuộc đời sống chết với hội họa, như một tử đạo. Tác phẩm đơn giản, ít màu, ít nét vậy mà đã cho tôi nhiều cảm xúc và suy nghĩ. Và rồi tôi đọc cái tựa Rừng Câm, hình như không liên hệ gì nhiều những điều tôi nghĩ. Theo phản ứng bình thường, tôi nhìn kỹ tác phẩm có cây cỏ, hoa lá,…hình như không có các hình thể để tạo nên cảnh rừng, một số đề nghị về phần dưới của tác phẩm, như mặt nước hồ phản chiếu nhà thờ làng mạc hơn là rừng cây. Thông thường tôi không bận tâm nhiều về tên của họa phẩm, nhưng Đinh Cường chắc không đặt tên cho vui, nhất là một tác phẩm gói trọn nhân sinh quan. Và tôi đã điện thư (email) đến họa sĩ Đinh Cường.
Điện thư từ Nguyễn Việt Hùng: 5/21/2007 Anh Đinh Cường, Tác phẩm Rừng Câm ( Mute Forest ) rất mạnh. Hy vọng tác phẩm này có cơ hội đến được người sở hữu có đủ điều kiện, để đưa tác phẩm lên mức giá trị đích thực của nó, và bảo quản như một tài sản của nền hội họa VN. Theo sự nhận xét của tôi; Rừng Câm là tác phẩm đối thoại với niềm tuyệt vọng, với cái chết, nỗi cô đơn,…làm sao những người sưu tập nghệ thuật, mua tranh theo phong thủy dị đoan, trang trí nhà cửa….mà nhận thấy được cái đẹp u uẩn đến tận cùng thân phận người sáng tạo? Anh có thể nói một chút về tác phẩm này, có phải đây là khu rừng sau nhà anh? Việt Hùng
Điện thư từ Đinh Cường: 5/21/2007 Thân gởi Việt Hùng , Tôi không ngờ gặp được người bạn am hiểu tận cùng tim can như vậy. Rừng câm …đó là sự tích lặng của những năm tháng tôi âm thầm làm việc cô đơn nơi này. Cảnh rừng sau nhà ở chổ vẽ, nhìn ra mỗi ngày. Có ngày giông lớn, có đêm bảo tuyết, có mùa Đông cây trơ cành, mùa Thu rừng lá ngập vàng như khu rừng Klimt vẽ …hay bây giờ là mùa Xuân xanh lá cây. Tôi đã có bao nhiêu điều muốn nói và đã chôn dưới những lớp màu chồng chất. Suốt 3 tháng mùa Đông băng giá …tôi chỉ vẽ bức này. Đó là hình ảnh tôi càng nhìn càng thấy như Chúa bị đóng đinh cùng cảnh rừng …Rừng Câm mà tiếng gió lớn như lửa táp …Cám ơn bạn vô cùng, bạn làm tôi cảm động … DC
Trong thế giới nghệ thuật tạo hình hiện nay, chất mới lạ trong các sáng tác, mới là điều đáng quan tâm. Để có được chất mới lạ, thì việc cần thiết là đừng làm chuyện cũ. Một số sáng tác nghệ thuật được đánh giá cao, là do tính chất phủ nhận, phù hợp với hướng phát triển của hội họa đương đại, luôn từ chối những gì đã thực hiện, đây là một hành động ý thức của người sáng tác trong quá trình đi tìm chất mới cho hội họa. Những sắc độ và hình thể trong tác phẩm Rừng Câm, đã có lúc là những màu sắc rực rỡ, cùng những đường nét tài hoa, tích lũy và phát tiết từ họa sĩ, với hơn nửa thế kỷ miệt mài với hội họa. Không vì thế mà họa sĩ bằng lòng, ngày qua ngày, tháng qua tháng, những thành quả màu sắc và đường nét cũng trở thành kỷ niệm lắng đọng theo thời gian, theo những lớp phủ của từng tảng màu câm lặng, trầm tối của sắc độ xám. Hình thể Chúa trên thập tự giá, hoặc người thắt cổ, là những nét triển khai mà họa sĩ bắt nắm được trong tình thế ngẫu nhiên của bố cục. Hình thức và nội dung của tác phẩm Rừng Câm, là sự kết hợp mạnh mẽ của ý thức và tình cờ trong quá trình sáng tạo. Nhưng khi Đinh Cường đặt tựa Rừng Câm, thì chính họa sĩ đã mạo hiểm về số phận của tác phẩm. Làm sao Đinh Cường có thể nói được những tình cảm tâm tư, không những trong ba tháng cô đơn với bức họa, mà hình như cả cuộc đời, vui buồn thế cuộc vào trong một tác phẩm, mà chính họa sĩ đã tự đặt mình vào thế chìm lắng, không cần phát biểu, giải thích. Chính cái tựa của tác phẩm đã tạo nên một khái niệm, một khuynh hướng hội họa hiện nay; nghệ thuật tạo hình từ ý niệm (conceptual art). Một điều rất trái ngược; các họa sĩ thuộc trường phái hội họa Ý niệm, thường làm rất ít và nói thật nhiều, trong khi đó tác phẩm Rừng Câm của họa sĩ Đinh Cường thì làm quá nhiều, để rồi không còn gì để nói. Câm lặng là một thiệt thòi, nhưng có thể là niềm kiêu hãnh, bất khuất, như danh họa Cezanne, suốt cuộc đời còn lại ẩn mình, cô đơn sáng tác những tác phẩm bất hủ, để trở thành nền tảng cho nền hội họa Hiện đại. Như là duyên hội họa, nếu tôi không có dịp tiếp xúc với họa phẩm, và xúc cảm của tôi không cùng tần điệu với họa sĩ Đinh Cường, để họa sĩ có thể tiết lộ vài điều về sáng tác này, thì có thể Rừng Câm không có dịp giải bày đến khách yêu thích hội họa. Màu sắc, đường nét, hình thể là ngôn ngữ của hội họa, là tiếng nói của họa sĩ, Đinh Cường đã vẽ cánh rừng sau nhà, đã tâm sự cùng với cánh rừng, và rồi chôn lấp để trở thành RỪNG CÂM.
Nguyễn Việt Hùng
6/2007
California, USA
Cám ơn em nhiều lắm đã đưa bức tranh “Rừng Câm” xuống “còm” của chị để các bạn dễ thưởng thức khi đọc bài chia sẻ về bức tranh.
Chị đã có ý muốn nhờ em, nhưng ngại phải làm phiền em. Không ngờ em đã hiểu ý chị mà làm. Cám ơn cô em lắm lắm. 🙂
Nhân nói về “trình độ thưởng thức tranh”, Cỡ học vấn uyên thâm như cụ Phạm Quỳnh, mà cụ cũng…”ù ù cạc cạc”…đấy các bác ạ!
Trên tinh thần vui vui góp chuyện, xin gõ chép một đoạn mà cụ thú nhận là mình cũng…”ù ù cạc cạc” khi xem triễn lãm tranh sau:
“…Có lúc nghĩ lẩn thẩn những bức hoạ họ cho là tuyệt bút kia, giá đáng kể hàng muôn triệu, tưởng giá có người cho để treo nhà cũng không lấy làm thích vì không hiểu nó là cái gì. Nhiều khi vẫn lấy đó là một điều khuyết điểm trong sự giáo dục của mình, mà tự lấy làm băn khoăn một mình. Vì những công trình mỹ thuật kia cả một phần thế giới có tiếng là văn minh đều công nhận là tuyệt phẩm tuyệt tác, mà mình tuyệt nhiên không biết cảm phục, thời chẳng là người ngu và dốt lắm ư? ”
( Trích trong Thi Văn Hợp Tuyển, bài: ” Phạm quỳnh – Cảm tưởng khi xem tranh tại Louvre – ngày 25/6/1922 ” )
Cám ơn cô Mai.
Một bài cảm nhận và bình tranh thật thú vị.
Đọc, ta như vỡ ra và thu nhận được nhiều điều thú vị trong một tác phẩm hội hoạ.
Đọc sơ lược tiểu sử trong bài này về hoạ sĩ Đinh Cường, Út thấy ông có được 2 giải thưởng:
1/ Huy chương bạc triển lãm mùa xuân Saigon.
2/ Giải thưởng đệ nhất triển lãm quốc tế mỹ thuật Saigon do toà đại sứ Trung Hoa.
Vậy, 2 bức tranh ông đoạt những giải thưởng này có tên là gì vậy chị Ba? Chị Ba có thể xin phép ông, để post lên đây cho cả nhà cùng thưởng ngoạn được chứ?
Chị Ba ơi, Út nghe nói là có nhiều văn sĩ, thi sĩ, nhạc sĩ, hoạ sĩ VN mình ( và ngay cả thế giới), thường trong cuộc sống, họ sống không phải bằng thu nhập chính là “bán” những tác phẩm của họ, mà nguồn thu nhập chính lại là bằng những ngành nghề “tay trái” khác! Sáng tác với họ là niềm đam mê cháy bỏng..!
Vậy, trường hợp của hoạ sĩ ĐC thì như thế nào, chị Ba có biết chút chút gì không vậy?
Hỏi hoạ sĩ về chi tiết “tế nhị” này được không chị Ba?
Út Vân:
Về câu hỏi của em, họa sĩ Đinh Cường cho biết:
Hai bức được giải thưởng Triển Lãm Hội Họa Mùa Xuân là:
– Năm 1962: THẦN THOẠI ( tiếc là catalogue không in màu ) bức này do ông Nguyễn Lưu Viên ( lúc đó giữ chức gì không nhớ đích xác) mua và để tại Viện Bảo Tàng trong Sở Thú do ông Vương Hồng Sển làm giám đốc.
– Năm 1963: CHỨNG TÍCH ( được chọn dự Triển Lãm Mỹ Thuật Quốc Tế Hoạ Sĩ Trẻ Tuổi tại Musée d’Art Moderne – Paris ) đổi tựa thành MIỀN LỆ XANH.
– Giải thưởng Triển Lãm Mỹ Thuật Quốc Tế tại Vườn Tao Đàn Sài Gòn năm 1962 :
bức NHÀ THỜ , do Tòa Đại Sứ Trung Hoa tặng bằng khen và giải thưởng 10 ngàn đồng.
Dạ, Út cám ơn chị Ba nhiều ạ.
Chị Ba quả thật là nhiệt tình, tỉ mỉ và chu đáo.., Út thật kính mến hết sức luôn đó!
Út Vân:
Chị rất vui khi giúp em và các bạn được hiểu biết thêm về người họa sĩ mà chúng ta hằng ngưỡng mộ.
Luôn vui em nhé!
Chào chị Nha Trang, chị Nguyệt Mai và Phay Van: Lâu quá, hôm nay Trâm sắp xếp vào chơi, đọc bài một chút đây.
Hai chị và Phay Van vẫn vui khoẻ chứ?
Thông cảm cho Trâm, lâu lâu mới vào chơi nghen.
Trâm đọc bài đây…
Ngôn ngữ hội hoạ thật đa chiều, khó hiểu và đầy bí ẩn, mỗi tác giả khi sáng tác thể hiện những cảm xúc nội tâm của mình bằng những nét cọ thông qua những mảng sắc màu đa dạng.
Người thưởng lãm thì cũng “chín người mười ý”…
Đọc bài, xem chùm ảnh tranh trong entry này, nhất là chùm ảnh tranh Hs ĐC vẽ thi sĩ Bùi Giáng, mà ông gọi là “Bùi Giáng trong mỗi sát-na”…
Là “người trần mắt thịt”…chợt nhớ đến câu nói của Maurice Barrès:
“Nhìn bức tranh đẹp mà cảm, không phải là cảm cái nét cọ nó vẽ khéo, không phải là cảm cái màu sắc nó tươi tốt, mà chính là cảm cái tâm tình của người hoạ sĩ giữa lúc cầm cọ vậy – Ce que l’on admire dans un tableau ce n’est pas la couleur, ni le dessin mais plus profondément la qualité de l’âme de l’artiste au moment où il peignait – ”
( Phạm Quỳnh lược dịch )
Thân ái chào Bảo Trâm. Trâm vẫn khỏe chứ?
Nguyệt Mai dạo này cũng khá bận nên cũng không chuyện trò thường xuyên lắm. Chị Nha Trang cũng bận việc riêng nên ít vào chơi.
Thân chúc Bảo Trâm và anh Công Thành một cuối tuần vui vẻ nhé.
Cám ơn cô Mai nhiều.
Cũng thân chúc cô Mai cùng gia đình cuối tuần hạnh phúc vui vẻ nghen.
Kính thăm và rất cám ơn anh Công Thành về lời chúc…
Luôn an vui anh nhé.
Chủ đề của bài là giới thiệu về hoạ sĩ ĐC, vậy một chút tò mò, nếu có thể, cô Mai hỏi dùm Hs ĐC cho mọi người biết, cho đến nay Hs đã sáng tác được tổng cộng là bao nhiêu tác phẩm:
1/ trước 1975 = ?
2/ sau 1975 = ?
3/ và năm ông sáng tác nhiều nhất = ?
Nếu không phiền, thành thật cám ơn cô Mai trước nhé.
Anh Ngô Tấn:
Xin chuyển đến anh câu trả lời của Họa sĩ Đinh Cường:
* Về sáng tác và tổng cộng tác phẩm ĐC có thể tìm đọc:
Huỳnh Hữu Uỷ
Nghệ Thuật Tạo Hình Việt Nam Hiện Đại
VAALA, California xb 2008
* Năm sáng tác nhiều nhất: Những năm 1960 – 1970
Cám ơn cô Mai nhiều về những thông tin mà tôi tò mò muốn hỏi nhé.
Không có chi, thưa anh Ngô Tấn.
Cùng các bạn,
Nguyệt Mai tình cờ tìm thấy được bài giới thiệu “Paris khám phá tranh Đinh Cường và Nguyễn Đình Thuần”, xin chia sẻ với các bạn:
http://www.viet.rfi.fr/node/30404
Bạn nhấn vào nút nghe, sẽ được nghe giọng nói của họa sĩ Đinh Cường.
Dạ, cảm ơn Chị Nguyệt Mai.
Xin cảm ơn bác Công Thành, Mai, Phay Van đã chia sẻ và đồng cảm , thú thực hôi họa là cách nhìn của trái tim ( ai đó nói khi xem ranh thì phải nhắm mắt lại (?) ) còn riêng cá nhân tôi thì lúc nào cũng cực kì kém cỏi trong việc thưởng thức món ăn tinh thần này. ….
Vậy là em cũng giống bác Trà về mặt này rồi. Với hội họa thì anh em mình là “ngoại đạo”, bác hở?
Không có chi, bạn Trà Hâm Lại ạ. Nói theo ngôn ngữ của thi sĩ Bùi Giáng thì là: “Vui thôi mà …”