Trang chủ > Văn > Cái muỗng

Cái muỗng

Các bạn thân mến,

Nguyệt Mai xin chia sẻ với các bạn một bài viết thật cảm động về tình cha con, đã làm Mai rơi lệ trong mùa Xuân này. “Cuối cùng người ta chỉ còn lại cái Tình. Cái Tình ấy dù gửi đi tới đâu cũng vẫn còn lại, đôi khi mạnh và sâu hơn, chỉ khi nào người ta tự đánh mất nó thì nó mới mất mãi mãi. Tôi chắc chẳng ai dại gì làm mất cái thứ báu vật trên đời không gì có thể so sánh được.”(VQ)

.

Cái muỗng

Văn Quang

Tôi không nhớ rõ năm đó là năm thứ mấy chúng tôi “học tập cải tạo”, chỉ biết rằng khi ấy trong chúng tôi đã có những người “quen” với những ngày tháng cực khổ, dài lê thê trong những căn nhà giam được “xây dựng” bằng đủ thứ kiểu giữa những vùng rừng núi âm u miền Bắc. Ở Sơn La thì “trại” được làm trên những nhà tù từ thời xa xưa, trên những cái nền nhà lỗ chỗ, người ta dựng vách đất trộn rơm, mái lợp bằng các kiểu lá rừng, miễn sao che kín được khung trời.

Nơi này xưa kia, Pháp dùng để giam giữ tù chính trị, rồi một thời gian sau, VN giam những người tù Thái Lan và trong chiến tranh đã có khi người ta dùng làm “công binh xưởng” chế tạo lựu đạn. Vì thế nên thỉnh thoảng chúng tôi nhặt được vài cái vỏ lựu đạn ở đâu đó quanh khu vực này. Ở Vĩnh Phú thì nhà tranh vách đất, ngoại trừ một khu người ta gọi là khu “biệt kích” gồm vài căn nhà “xây dựng kiên cố” bằng gạch lợp tôn xi-măng. Chúng tôi “được học tập cải tạo” trong dãy nhà này. Cũng nghe người ta nói lại là khu này trước kia dùng để giam giữ những người lính biệt kích đã từng nhảy dù ra Bắc rồi bị bắt giam ở những khu đặc biệt đó. Muốn vào khu này phải qua hai lần cổng có tường gạch bao quanh. Nhưng có lẽ khi giam giữ biệt kích thì khác, còn khi chúng tôi “được giam” ở đây có vẻ như “cởi mở” hơn vì những cánh cổng thường không đóng bao giờ. Họ để cho chúng tôi đi lao động hàng ngày cho khỏi phải mở ra đóng vào.

Cuộc sống dù cực khổ đến đâu, sống mãi rồi người ta cũng phải quen. Nhịp sống hàng ngày cứ thế trôi đi dù là trong đói rét, thiếu thốn và trong những cấm đoán vô cùng khe khắt. Nhà tù nào chẳng thế, nó có những quy luật và quy định riêng. Những ngày đầu người ta cấm luôn cả trà, cà phê, thậm chí cấm cả người tù đeo kính cận. Nhưng sau này nới dần, những thứ như thế không bị cấm nữa. Chỉ còn những thứ đã thành “luật” thì luôn bị cấm và cấm ở bất cứ đâu. Cấm “mua bán đổi chác linh tinh”, cấm dùng thức ăn lâu ngày bằng bột, cấm tỏi và cấm tất cả những dụng cụ sinh hoạt bằng sắt như dao, kéo, muỗng nĩa… Tuy vậy có anh tù nào lại ngây thơ ngoan ngoãn đến nỗi tuân theo hoàn toàn những quy định ấy. Mua bán đổi chác linh tinh vẫn cứ diễn ra, dao kéo vẫn cứ được lén lút xử dụng hàng ngày nhưng đó là những thứ đã được “cải biên” thành dao kéo mini nhỏ síu cho dễ cất giấu. Nó là những vật dụng cần thiết cho đời sống hàng ngày, dù có bị bắt thì cũng chỉ bị tịch thu chứ không đến nỗi bị cùm một hoặc hai chân –tùy theo tội– hay bị đưa vào “thiên lao” tức là thứ phòng giam đặc biệt trong trại tù.

Ngày qua ngày, cái “không khí êm ả” của trại giam trở nên phẳng lặng nhưng dĩ nhiên là không thể nào nói rằng đó là thứ “an tâm, hồ hởi phấn khởi” mà bất kỳ anh “trại viên” nào cũng cứ phải viết khi phải làm những “bản kiểm điểm”, mặc dù kể cả người viết và người đọc đều chẳng ai tin.

Nhưng cái không khí ấy đôi khi bỗng nhiên bị xáo trộn. Vào một buổi sáng tinh mơ, khi chúng tôi đang ngồi ở cái sân đất giữa trại, chờ gọi tên từng đội đi lao động để “một ngày lại vinh quang như mọi ngày” thì bỗng đâu toán lính gác trại tù sồng sộc chạy vào. Họ chạy rầm rập như ra trận, súng ống chĩa về phía “quân thù”, mặt mũi “khẩn trương” rõ rệt. Họ sộc thẳng vào những phòng giam trống hốc cứ làm như có địch ẩn nấp đâu trong đó.

Chúng tôi ngẩn ngơ đứng nhìn, không hiểu họ giở trò gì. Có những khuôn mặt lo lắng, một nỗi lo bâng quơ. Chuyển trại hay có ai đó trốn trại? Chưa biết. Toán lính lục tung hết mọi thứ đồ đạc ít ỏi mà mỗi người tù có được trong gói hành trang của riêng mình. Sau đó chừng nửa giờ, một vài gói đồ bị tịch thu được vác lên “phòng thi đua”. Lúc đó thì chúng tôi mới hiểu rằng đó chỉ là một kiểu khám phòng để tìm ra những thứ đồ “quốc cấm” mà trại đã quy định tù không được dùng.

Thật ra, đó cũng là cái cung cách mà ở những “trại cải tạo” thường dùng để khuấy động cái không khí trầm lặng dễ phát sinh ra những “tiêu cực”. Bởi trong cái sự yên bình của một trại giam, người tù có thể liên kết với nhau làm một chuyện gì đó như tổ chức trốn trại hoặc có thể có những vụ xúi giục “tuyệt thực”, bàn bạc chống đối… Và nếu nói đến sự chống đối thì có hàng trăm thứ để có thể chống đối được. Thí dụ sự ăn đói, sự đối xử bất công, sự oan ức vô lý, sự trù dập của một vài anh “quản giáo”, sự thô bạo của mấy anh lính võ trang. Chuyện gì cũng có thể chống đối được. Vì thế thỉnh thoảng họ phải làm cho cái không khí đó mất hẳn cái vẻ trầm lặng để chứng tỏ lúc nào họ cũng đề phòng, lúc nào họ cũng “đề cao cảnh giác”, lúc nào họ cũng sẵn sàng đối phó với mọi “mưu đồ”.

Các anh tù đừng có tưởng bở, chẳng bao giờ yên đâu. Cứ sau mỗi lần như thế, chắc chắn thế nào họ chẳng vớ được vài anh tù nào đó giấu những thứ vớ vẩn như dao kéo, thư từ, sách vở tiếng nước ngoài, tiền bạc, đồ dùng ngoài quy định. Tất nhiên sẽ có những cuộc “kiểm điểm, phê bình” mà chúng tôi gọi là những “buổi tối ngồi đồng” để từ đó lòi ra một vài cái “tội”. Ðội nào khôn ngoan thì cứ ngồi im, ai “phê” thì cứ mặc, còn cãi là còn “ngồi đồng”. Ði làm suốt ngày mệt mỏi đến thở không ra, tối về còn ngồi đồng, còn “phê bình” còn “kiểm thảo” thì chịu sao nổi. Nay “làm chưa xong” thì mai lại ngồi tiếp, ngồi cho đến khi nào tìm ra tội mới thôi. Tội nặng, tội nhẹ tùy theo tình hình của từng thời điểm.

Thời điểm “căng” thì vào tù phạm tội vào nhà kỷ luật đặc biệt nằm “treo một chân”, thời điểm nhẹ nhàng thì cảnh cáo, ghi tội vào biên bản. Và họ sẽ có những biện pháp an toàn như chuyển đổi năm bẩy anh từ đội này sang đội khác để phòng tránh những vụ tù kết hợp thành tổ chức, những phe nhóm có thể gây nguy hại đến an ninh của trại tù.

Chung quy đó chỉ là một cách đào xới tung cái tinh thần “tưởng rằng yên ổn” của mấy anh “trại viên” còn tỏ ra cứng đầu, còn có mưu toan lôi kéo người này người kia vào trong phe mình để từ đó có những yêu sách hoặc toan tính bất lợi cho trại tù. Quả là mỗi lần như thế trại tù cũng rối tung lên và làm cho những anh yếu bóng vía thường phải sống dựa vào tinh thần bè bạn càng thêm rụt rè, chẳng biết tin vào ai được nữa. Nhưng riết rồi trò gì cũng thành quen và đối với một số người tù “chẳng còn có gì để mất” thì họ trơ như đá, muốn làm gì thì làm, chỉ có cái thân tù đói này thôi, sống cũng được mà chết cũng chẳng sao.

Có lẽ tôi cũng đã học tập được cái tinh thần ấy của những anh bạn trẻ, bởi tôi cũng chẳng còn có gì để mất. Vợ con nhà cửa đều đã mất tất cả rồi, chẳng có gì phải lo. Ðôi khi tôi sống tưng tưng, ông anh rể ở Sàigòn gửi cho cái gì thì nhận cái nấy. Và một sự thật không thể quên là nếu không có ông anh rể tốt bụng đó thì tôi cũng đã trở thành một thứ “Tù Caritas” như một số anh em ở trong trại tù rồi. Tức là những người tù chẳng có ai thăm nuôi.

Những bà vợ đau khổ với những gia đình đói rách lầm than, họ lo cho chính họ còn không xong thì lấy gì đi “thăm nuôi” người ở trong tù mà lại tù ở tuốt tận miền Bắc xa tít mù tắp. Thậm chí có người tù còn vui mừng khi thấy vợ mình bước đi bước nữa với một anh nào đó và đưa các con ra được nước ngoài. Tôi nói thế để chứng minh rằng không nên trách cứ bất kỳ một ai trong hoàn cảnh cay nghiệt này. Theo tôi thì những anh “mồ côi” không ai thăm nuôi trong trại tù mới chính là những anh hưởng trọn vẹn được cái “thú đau thương”.

Trở lại chuyện buổi sáng tinh mơ, khi toán lính chạy sồng sộc vào trại. Ðó là một buổi sáng cuối mùa đông, trước Tết âm lịch chừng vài ngày. Ðây cũng là biện pháp an ninh thông thường của các trại tù trước những ngày lễ Tết lớn. Tôi thảnh thơi theo đội đi làm ở ngoài đồng. Tôi vẫn cứ yên trí rằng tôi chẳng có gì để mất, hay cái vật tôi mất chẳng có gì quan trọng.

Vào mùa đông cái thứ quan trọng nhất với người tù chỉ là rau. Mùa này thiếu rau đến… khô quắt cả dạ dày, rau muống bầu bí không trồng được, chỉ còn rau cải và trồng cải thì lâu mới được ăn và năng suất không cao, cho nên có được tí rau là hạnh phúc nhất. Tôi ngồi lê la trước mấy luống su hào, đó là thứ “thực phẩm cao cấp” nhất trong khu vườn rau của toàn đội. Những củ su hào bắt đầu to hơn nắm tay nằm tròn trĩnh dưới những tàu lá xanh mượt mà, tôi trông coi chúng vì cái công sức tôi bỏ ra hơn một tháng trời. Tôi coi chúng cũng như một tác phẩm nào đó mà tôi đã từng viết ra, ở đây không có gì để coi như tác phẩm thì coi nó là tác phẩm vậy, để có cái mà thú vị và để có cái mà quên đi những thứ quanh mình.

Cứ như thế tôi tha hồ đặt tên từng luống su hào, có khi là một cái tên nghe có vẻ “lả lướt” như tên người tôi đã gặp ở tiệm khiêu vũ, có khi là một cái tên rất dung tục. Âu cũng là một trò “nghịch ngầm” giữa vùng rừng núi âm u, hầu như không có mặt trời mùa đông này. Nhưng tôi biết rằng trò chơi của tôi sẽ phải chấm dứt trong một hai ngày nữa. Bởi Tết đã đến, dù 12 luống su hào còn non chưa đến ngày “thu hoạch” nhưng cần thức ăn trong ba ngày Tết nên họ sẽ nhổ. Nếu tù không ăn thì cai tù ăn, chứ không đời nào họ chịu để đến mùa xuân. Nhưng vui chơi được giờ nào hay giờ ấy trong cuộc sống phù du này.

Buổi trưa về đến trại, trong khi bạn bè xung quanh đang xôn xao, kẻ bị tịch thu cái này, người bị mất cái kia thì tôi vẫn nhởn nhơ vì tôi chẳng có gì để mất. Tôi xách tô đi lấy cơm, gọi là phần cơm, nhưng thật ra chỉ có đúng một bát bo bo tương đối khá đầy đặn. Tôi ăn thì tạm lưng lửng, nhưng những người bạn tôi thì không bao giờ đủ. Họ thường nói “Vừa ăn xong mà vẫn cứ tưởng như mình chưa ăn”. Cái đói cứ lửng lơ mãi ngày này qua ngày khác, thế mới là khó chịu. Có những ông bạn tôi ăn theo cái kiểu câu dầm, tức là lấy cái muỗng tre nhỏ xíu, hoặc một cái gì đó lớn hơn cái đầu đũa, múc từng muỗng bo bo ăn rả rích suốt ngày để có cảm tưởng lúc nào cũng được ăn, nó làm lu mờ cái cảm giác đói, đó là cách tự đánh lừa mình.

Tôi cũng “ăn dè hà tiện” nhưng tôi ăn bằng muỗng. Cái muỗng rất đặc biệt bằng inox hẳn hoi, có chạm trổ tinh vi và luôn được chùi rửa sáng bóng. Nhưng sáng nay, được chia hai củ khoai lang ăn sáng nên tôi để cái muỗng ở nhà. Tôi thường cất nó vào trong chiếc lon Guigoz – một loại vỏ hộp sữa được chế biến thành đồ dùng rất thông dụng và nhiều lợi ích của hầu hết những anh tù, nó có thể dùng “trăm công ngàn việc” từ đựng các loại thức ăn, thức uống đến đun nấu, câu móc, đựng mắm muối, chứa đồ để dành, múc nước tắm rửa đánh răng, rửa mặt. Nhưng hôm nay thì cái muỗng biến mất, tất nhiên là nó đã bị tịch thu trong buổi khám xét trại sáng nay.

Ðây là thứ “gia bảo” tôi đã cất giấu nó suốt mấy năm nay chưa hề lơi lỏng. Nó luôn nằm sát bên tôi, lúc đi lao động cũng như khi nằm ngủ. Có thể ví như cái nạng của một anh què, cái gậy của ông lão chín mươi, một thứ đã thành thói quen bám vào cuộc sống.

Sau một buổi trưa mưu toan tính kế, chiều hôm đó tôi quyết định đến gặp Dực, anh chàng trưởng ban thi đua của trại. Dực cũng chỉ là một “trại viên”, nhưng trước đây anh ta là cán bộ, anh “thoái hóa tiêu cực” sao đó nên bị đi tù. Những anh cán bộ và quân nhân trong trại tù thường được gọi là “phạm binh, phạm cán” tức là tội phạm thuộc binh sĩ hoặc cán bộ cũ. Họ có một chế độ đãi ngộ riêng và thường được dùng vào trong các công việc cần đến sự tin cậy của giám thị.

Bữa khai lý lịch, thấy tôi khai là dân huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình, Dực liền hỏi quê quán và nhận là người cùng quê. Một lần Dực dẫn chúng tôi đi lấy quần áo ngoài trại chính, qua khoảng đồi núi quanh co, anh ta chỉ tay lên mảng cây cối thưa thớt, nói với tôi rằng “Cậu Huyện Nhụ nằm ở đó”.

Tôi hỏi anh có họ hàng thế nào với ông Huyện Nhụ, anh ta nói anh là cháu gọi ông Nhụ bằng cậu, nhưng gia đình cụ Nhụ vào Nam còn gia đình anh vốn là nông dân nên ở lại miền Bắc.

Cụ Nguyễn Mạnh Nhụ trước năm 75 làm chánh án ở Tòa án Sài Gòn và tôi nghe nói là cũng có họ hàng với gia đình tôi, nhưng là họ xa. Cụ làm tri huyện từ khi còn rất trẻ. Sau này tôi có gặp cụ vài lần. Tôi kể cho Dực nghe đôi ba chuyện về cuộc sống của cụ Huyện Nhụ khi còn ở Sài Gòn. Sau này đi “cải tạo” cụ Huyện Nhụ mất ở trại này. Dực nói là trước khi cụ chết, cụ chỉ thèm được ăn một cái bánh giò. Dực nhắn người nhà ở Thái Bình khi đi thăm nuôi thì ghé qua Hà Nội mua lên vài cái, nhưng khi bánh giò mang lên thì cụ mất rồi.

Từ đó, đối với tôi, Dực có phần dễ dãi hơn. Nhưng dĩ nhiên cái khoảng cách giữa một bên là “ngụy” một bên là “cán” thì khó mà san lấp được…

Nhưng hôm nay thì tôi cần đến hắn. Suốt buổi trưa tôi không gặp được Dực. Cho đến hai hôm sau, khi trại đã xôn xao chuẩn bị cho những ngày Tết tôi mới gặp được Dực. Trong khi đó tôi dò hỏi mấy tay làm văn hóa xem những thứ bị tịch thu còn để trong phòng thi đua không. Họ nói còn để trong kho lẫn lộn với những thứ đồ dùng khác. Tôi mang cho Dực một ít thuốc đau dạ dày của ông anh tôi mới gửi vào. Rất may cho tôi là hắn cũng bị đau dạ dày. Mà cái thứ thuốc trị bệnh dạ dày ở miền Bắc hồi đó chỉ là tí mật ong trộn với nghệ nên không công hiệu. Tôi có thứ thuốc “cao cấp” hơn là Maalox, uống vào là cơn đau dịu xuống ngay. Thuốc Mỹ đàng hoàng, người ta ghét Mỹ nhưng thuốc của nó tốt thì cứ thích, có sao đâu.

Tôi gạ chuyện để xin lại cái muỗng. Dực trợn mắt:
“Anh làm cái gì mà cần cái muỗng đến thế? Bây giờ để trong kho, chui vào đấy mà trực trại nó biết thì tôi vào nhà đá.”

Tôi nằn nì:
“Ðấy là đồ gia bảo của tôi đấy. Anh biết không, tôi mất nhiều thứ lắm, một cái bằng lái xe ba dấu, một cuốn tự điển. Nhưng tôi không cần, tôi chỉ cần cái muỗng thôi.”

Dực nhìn tôi nghi ngại:
“Mày giấu cái gì trong đó?”

Dực hơn tôi hai tuổi nên hắn có gọi tôi bằng mày tôi cũng không tự ái, mà dù hắn có kém tôi vài ba tuổi mà lúc đó hắn gọi tôi bằng mày tôi cũng cho qua luôn.

“Cái muỗng đặc và nhỏ như thế làm sao giấu cái gì trong nó được?”

Dực nửa đùa nửa thật:
“Bọn mày thì lắm trò lắm, cái gì chúng mày chẳng làm được. Chưa biết chừng mày giấu cả cái máy quay phim trong đó cũng nên. Tao nghe nói mày có sách làm phim phải không?”

“Ðúng, nhưng là tôi viết truyện rồi người ta lấy làm phim chứ tôi biết cái cóc khô gì.”

“Vậy sao mày chỉ đòi lấy lại cái muỗng, mày mua chuộc tao bằng hai vỉ thuốc đau dạ dầy, không bõ. Khéo không chết cả đám. Tao không chơi.”

Tôi thất bại, nhưng vẫn không chịu bỏ cuộc. Chiều hôm đó, Dực lại được lệnh phải làm một cái phòng đọc sách vào dịp Tết. Tôi đang loay hoay dán mấy cành hoa đào lên tấm phông trên hội trường thì Dực kéo tôi xuống. Nó bảo tôi đi khuân sách trên thư viện về hội trường, kê bàn ghế, trang trí thành khu đọc sách báo trong ba ngày Tết cho ra vẻ “có văn hóa”. Nhưng nếu coi thư viện thì không được ăn Tết ở phòng mà phải ngồi trực ở hội trường. Tôi nhận lời ngay dù biết rằng tôi sẽ mất cái thú dự những ngày Tết với anh em trong phòng giam và mất cái thú ngồi đánh mạt chược bằng những con bài gỗ do chúng tôi tự làm lấy.

Thế là tôi lại có dịp lân la nói chuyện với Dực về cái muỗng của tôi. Dực vẫn nghi ngờ rằng tôi có cái gì giấu trong đó, hay tôi cần cái muỗng để làm việc gì đó. Tôi đành kể cho Dực nghe:
“Buổi sáng hôm tôi phải đi “học tập cải tạo”, vợ tôi chuẩn bị một số đồ dùng cho vào túi xách để tôi mang đi. Ðứa con gái của tôi, khi đó mới hơn ba tuổi, thấy mẹ nó bỏ vào túi xách nào là quần áo, khăn mặt, thuốc… nó đang ăn sáng, cũng bỏ vào xách tay của tôi cái muỗng nó đang ăn và dặn: “Con cho bố mượn, khi nào bố về, phải trả lại cho con đấy”.

Tôi ôm con gái gật đầu hứa khi về bố sẽ trả con. Nhưng quả thật tôi vẫn nghĩ chẳng bao giờ tôi trả lại được cho nó. Lần chia tay này có thể là vĩnh viễn… Chúng tôi ngậm ngùi chia tay, không thể hẹn được ngày về vì có biết ngày nào về đâu mà hẹn!

Thế là từ đó, cái muỗng theo tôi suốt trong những bữa ăn, suốt trong những giấc ngủ. Hình ảnh con gái và gia đình tôi hiện lên qua cái muỗng đó. Tôi vẫn đánh lừa tôi rằng tôi đang được ăn bên con gái tôi, bên những người thân yêu của tôi. Dù tôi biết rất rõ sự lừa dối ấy là một niềm ước vọng không bao giờ thành hiện thực, nhưng vậy mà đôi lúc tôi cũng thấy ấm lòng.

Nghe câu chuyện ấy, Dực tỏ ra chần chừ, nhưng hắn vỗ vai tôi:
“Thôi được, nếu là như thế thì tôi giúp cậu. Tối nay, khi cậu ngồi coi phòng đọc sách, tôi sẽ giữ phần bánh chưng lại cho cậu, tôi sẽ gọi cậu xuống phòng thi đua cho cậu ngồi ăn ở đó, trong khi tôi gọi ban thi đua lên phòng hội thì tôi giả vờ để quên chìa khóa kho. Cậu mở cửa kho vào mà tìm, nhưng có gì thì cậu chịu trách nhiệm. Nó mà vớ được thì ‘kỷ luật’ suốt cái Tết này đấy, chưa biết chừng suốt mùa xuân.”

Chẳng còn cách nào khác, tôi đành làm theo cách “ăn trộm” này. Tối đó tôi mở khóa mò vào gian nhà kho. Ánh điện từ nhà ngoài hắt vào, vừa đủ soi sáng cái đống hầm bà lằng đủ thứ đồ dùng lặt vặt vừa bị thu mấy hôm trước. Tôi sục ngay vào cái đống linh tinh đó, quả là những anh bạn tù của tôi có lắm trò chơi thật.

Thôi thì đủ thứ, cái điếu cày được làm bằng những ống hỏa châu hoặc những cáng băng ca được cắt ngắn, chạm trổ rồng phượng, khắc gọt rất tinh vi. Những cái trâm cài đầu, những cái lược cho con gái hay cho người yêu, làm bằng nhôm được khắc những cái tên “Hồng Hoa, Bích Phượng, Thúy Hường…” nghe nao cả lòng. Những con dao nhỏ xíu, những cái muỗng gò bằng tôn cũng có hoa lá cành. Tất cả những cái gì bằng sắt đều nằm gọn ở đó.

Sách vở tiếng Anh tiếng Pháp và đủ thứ giấy tờ lộn xộn. Cái mà tôi kiếm được trước tiên lại là cái bằng lái xe của tôi. Tôi không dại gì mà không đút vào túi, dù chẳng biết để làm gì. Tôi lại hì hục lục tiếp, vừa hồi hộp vừa phải làm thật nhanh tay, tôi đâm ra lính quýnh. Dù chỉ một tiếng động nhỏ cũng khiến tôi giật mình. Cái muỗng của tôi vẫn chưa tìm thấy. Ruột nóng như lửa đốt, tôi bới tung hết cả cái đống ấy và đâm hốt hoảng nếu cái muỗng không còn ở đó nữa. Nhưng may quá, cái muỗng kia rồi, nó nằm dưới cuốn sách dày cộm của “thằng chết tiệt” nào đó. Nó chỉ thò ra có mỗi cái đuôi, tôi cũng nhận ra nó ngay. Lúc đó tôi có cảm tưởng như “Con có ở xa bố hàng cây số thì bố cũng cứ nhận ra con như thường”.

Tôi vồ lấy nó như sợ bị người ta giật mất. Tôi nhìn cái hoa văn chạy dọc theo cán muỗng mà tôi đã quá thân thuộc như chính cái nét mặt con gái tôi khi nó “nhí nhảnh” đưa cái muỗng vào trong túi xách. Nó vẫn cứ tưởng là một chuyện vui, bố đi chơi vài ngày rồi bố về. Ừ thì vui. Tôi cười trong nụ cười mếu máo của mẹ nó và trong nụ cười hồn nhiên của nó. Không hiểu sao trong lúc gay cấn như thế mà hình ảnh xưa lại hiện lên rất nhanh như một ánh chớp. Tôi vọt ra khỏi phòng, khóa cửa lại, biến nhanh vào bóng tối trên con đường về “khu biệt kích”. Thoát nạn!

Cái Tết ấy tôi lại được vui chơi với cái muỗng của tôi, dù tôi đã phải hy sinh suốt ba ngày, trong khi mọi người được nghỉ ngơi thì tôi cứ phải quanh quẩn trong cái “phòng đọc sách” chẳng có ma nào thèm ngó đến ấy.

Những dịp nghỉ ngơi như thế cũng hiếm hoi như chuyện được ăn một bữa cơm đúng là cơm chứ không phải khoai sắn hay bo bo. Nhưng quả là tôi thấy hạnh phúc dù ngồi thui thủi một mình. Tôi có cái muỗng rồi, còn cần gì vui chơi nữa. Ðó chính là mùa xuân của tôi.

Nhưng không phải đó là một lần duy nhất tôi phải “cứu lấy” cái vật gia bảo của mình. Hai lần sau cũng tương tự, cũng bị tịch thu rồi cứu lại được cứ như sắp ra pháp trường rồi lại được cứu. Chỉ tiếc rằng người cứu tôi không phải là người bạn đồng minh đã từng chiến đấu với các đồng ngũ của tôi trong những năm qua, người đồng minh đó đã “gan dạ” cuốn cờ chạy nhanh và chạy xa quá rồi. Thôi thì tôi tự cứu lấy cái muỗng của tôi vậy.

Một lần khác, tôi lội qua con suối sau cơn mưa lớn. Chỗ chúng tôi làm phải đi qua một con suối, gọi là suối lạnh. Bình thường nó cạn, dòng nước trong vắt dịu dàng trôi lờ lững trên những tảng đá xanh. Chúng tôi thường dùng nơi này làm bến tắm. Nhưng cứ có một cơn mưa lớn là nước từ những triền đồi vây quanh bốn hướng ào ạt đổ xuống, chỉ cần nửa giờ sau là con suối trở nên hung hãn, nước chảy cuồn cuộn và mang theo những cành cây, những khúc gỗ lao băng băng. Chúng tôi phải gấp rút lội qua con suối trở về trước khi con suối trở thành hung dữ. Sang gần tới bờ bên kia, tôi loạng chọang làm đổ cái túi đồ đựng những thứ lặt vặt trong đó có cái muỗng. Ở đây tôi thuộc từng khe đá nên tôi không ngần ngại nhoài người xuống mò.

Anh bạn nhảy dù, la lên:
“Bộ ông điên sao?”

Tôi điên thật, tôi muốn mò tìm cái muỗng của tôi. Nhưng nước chảy xiết quá tôi lại thua. Anh bạn nhảy dù trẻ, què một tay vì bị thương ngoài chiến trường, rất hiểu tôi nên anh đi xa hơn một chút, anh khom người xuống, thò một tay vào cái khe hòn đá là tìm được lại cho tôi cái muỗng. Ðôi mắt anh rất tinh, anh mỉm cười:
“Tôi biết ông mất cái gì rồi. Tôi tìm được nó cho ông nè.”

Chuyện trớ trêu là hơn 12 năm sau, tôi trở về, nhưng tôi chưa trả lại cái muỗng cho con gái tôi được vì mẹ con nó đã vượt biên, đã định cư ở nước ngoài. Hơn hai mươi năm, tôi chưa một lần được gặp lại con gái tôi. Tính đến năm nay là 27 năm, con gái tôi đã 30 tuổi. Ngày 29 tháng 9-2002 vừa qua, cháu lập gia đình ở Miami, Florida.

Nhận được thiệp báo tin, tôi không biết mình vui hay buồn. Hình như không phải là vui hay buồn mà là một thứ cảm giác kỳ lạ cứ lơ lơ lửng lửng lẫn lộn. Chú thím nó và các anh chị nó ở Mỹ đều hẹn nhau đi dự đám cưới nó. Tôi thì không, chẳng hẹn hò được gì cả và chẳng làm được cái gì cả. Tôi có cảm giác như mình thừa. Rất may là trước ngày đám cưới, cô chú nó về Sài Gòn, chính tay tôi gửi được tấm thiệp mừng con gái tôi. Tôi gửi theo cái muỗng trả lại cho con gái tôi như lời hứa 27 năm về trước. Vật đó có thể thay cho sự có mặt của tôi không? Tôi không biết. Nhưng tôi chỉ nghĩ rằng gửi cho cháu để cháu hiểu rằng lúc nào tôi cũng coi như cháu còn nhỏ lắm, như mới hôm qua hai bố con còn ở bên nhau. Tôi đi chơi đâu đó và hôm nay trở về. Nhưng cháu đã đi xa và tôi còn ở lại Sài Gòn, nơi nó đã sinh ra. Cháu sẽ nghĩ gì, tôi không biết.

Nhưng vài hôm sau thì có một điều tôi biết rất rõ là từ khi cái muỗng được gửi đi, tôi cảm thấy trống trải như mất mát một cái gì, xa vắng một cái gì thân thiết hàng ngày ở bên mình. Tôi cho rằng nó cũng giống như cái cảm giác của những ông bố bà mẹ khi cho con gái mình đi lấy chồng xa. Nỗi buồn lâng lâng bay chập chờn khắp nơi. Nhưng đó chính là sợi dây vô hình nối liền mãi mãi tình thương yêu dù ở bất kỳ nơi nào trên hành tinh này. Cuối cùng người ta chỉ còn lại cái Tình. Cái Tình ấy dù gửi đi tới đâu cũng vẫn còn lại, đôi khi mạnh và sâu hơn, chỉ khi nào người ta tự đánh mất nó thì nó mới mất mãi mãi. Tôi chắc chẳng ai dại gì làm mất cái thứ báu vật trên đời không gì có thể so sánh được.

Lẽ ra chuyện này tôi đã viết ngay từ tháng 9/2002 khi tôi được tin cháu lập gia đình. Nhưng nhiều lần muốn viết tôi cứ ngồi mãi trước computer, không gõ được chữ nào, đầu óc lung tung. Dường như khi cảm xúc quá đầy, người ta không thể làm gì được ngoài việc cứ để cho nó tuôn trào lênh láng như ngồi dưới cơn mưa. Không nghĩ ngợi gì cả, không làm gì cả, cứ ngửa mặt lên cho mưa đầy mặt, thế thôi! Ðúng là chuyện của người thì làm xong nhanh mà chuyện của mình thì nghẹn. Mãi đến hôm nay tôi mới ghi lại được những dòng chữ này, nhưng tôi cho rằng chẳng bao giờ muộn vì nó là thứ chuyện của cả một đời hay là của muôn đời.

Văn Quang

(nguồn: http://hoanghaithuy.wordpress.com)

Chuyên mục:Văn Thẻ:
  1. Đinh Thành
    20/02/2012 lúc 15:52

    Câu chuyện thật sâu lắng, đầy tính nhân văn, làm người đọc chìm trong suy tưởng cảm động.

    ” Con cho bố mượn, khi nào bố về, phải trả lại cho con đấy” !

    “Lệnh”…của đứa con gái nhỏ dấu yêu 3 tuổi! Hỡi những người làm bố trong chúng ta, có ai can đảm, dám…”trái lệnh” này không nhỉ?

  2. Lãng Tử
    20/02/2012 lúc 20:50

    Cám ơn cô Mai, đọc chuyện này khi thấy tên tác giả là Văn Quang, tôi cứ ngờ ngợ…, vì chợt nghĩ đến Văn Quang, tác giả của cuốn tiểu thuyết “Chân Trời Tím”, mà trước 1975 đã được quay thành phim do Hùng Cường đóng vai chính, cũng như đã được Ns Trần Thiện Thanh lấy cảm hứng để sáng tác bản nhạc cùng tên “Chân trời Tím”…
    Tò mò kiểm tra qua google, thì quả đúng như vậy!
    Xin giới thiệu và chia sẻ trang này, các bác đọc thư giản để biết thêm chút ít về tác giả:

    Vô Google: ” Phỏng vấn Văn Quang “

    TB: Cô Phay Van có thể tìm bản nhạc “Chân Trời Tím” của Ns Trần Thiện Thanh post lên đây cho mọi người cùng nghe luôn được chứ?
    Cám ơn cô.

    • 20/02/2012 lúc 21:42

      Dạ phải, Văn Quang của Chân Trời Tím đó bác.

      Kính mời bác Lãng Tử và cả nhà nghe Chân Trời Tím, sáng tác Trần Thiện Thanh, trình bày Nguyên Khang và Ngọc Hạ.

  3. Trần thị Bảo Vân
    20/02/2012 lúc 22:07

    “…Tôi chưa trả lại cái muỗng cho con gái tôi được…(….)…Tính đến năm nay là 27 năm, con gái tôi đã 30 mươi tuổi…”

    Đọc đoạn này, Út chợt nhớ đến tác phẩm “Lời Sám Hối Của Cha” của nhà văn Võ Hồng quá!

    Nhà văn Văn Quang với ray rứt về..cái muỗng, chưa trả lại được cho con gái..!
    Nhà văn Võ Hồng với ray rứt về một lần bực bội trong công việc, đã lỡ tay quất đứa con gái thân yêu bằng một sợi dây nịt..!

    Hai nhà văn chỉ với 2 ký ức chi tiết nhỏ, nhưng bằng tài năng, và nhất là bằng sự rung cảm tấm lòng thật sự của người cha với con gái nhỏ, đã viết lên 2 câu chuyện làm người đọc phải rưng rưng xúc động.

  4. Trần thị Bảo Vân
    20/02/2012 lúc 22:34

    ” Con gái giống cha, giàu ba họ..”
    ” Còn Cha gót đỏ như son..”

    Giàu, và đỏ như son..đâu không biết, nhưng quả thật nhất định là: Cha thì thường..thương con gái hơn!
    Thế thì chị Năm ơi, gắn links..này luôn nghen chị:

    1/ Một Bông Hồng Cho Cha – nhà văn Võ Hồng
    2/ Nhạc phẩm: Nghĩ Về Cha – Ca sĩ Đàm Vĩnh Hưng

    • Võ Trung Tín
      21/02/2012 lúc 15:49

      Bảo Vân ơi!!!!!!! có.. GÓT SON.. đây!!!!!!!

      Mỗi lần thấy con gái chân dơ, Ba ẵm nó lên để mang đi rửa chân và dặn:
      – Con gái đẹp nhất là gót chân son, phải giữ gìn cho sạch nghe không?
      Một tối trời cúp điện lại mưa, Ba và con chơi kéo cưa, con bé cười nắt nẻ, đã cắn phải lưỡi, máu chảy ra! Ba ôm lấy nó trùm áo mưa và lao ra đường, vừa đi vừa trấn an:
      – Không sao đâu con, gặp bác sĩ mọi chuyện sẽ ổn thôi.
      Rồi lại cầu nguyện: Cầu xin Chúa cho có bác sĩ ở nhà!
      Tới nơi, bác sĩ vừa về đến…, và con bé không sao nữa…
      Nhưng Ba thì bàn chân trái đang chảy máu, vì lúc chạy Ba đã trượt mất một chiếc dép..nhưng vẫn cứ chạy..!
      Con bé ngồi xuống xoa xoa vào bàn chân của Ba rồi thổi phù phù, nó ngước nhìn Ba, mắt mọng nước:
      – Con trai đẹp nhất là gót chân son, nhớ phải giữ gìn nghe không?
      Mắt Ba nó..rưng rưng…

      ( TuyetNgaNguyenThuy – TNNT )

  5. chinook
    21/02/2012 lúc 09:30

    Câu chuyện thật cảm động và thực.

    Chiến tranh ác liệt và hâu quả bi thảm của nó đẩy con người đến thái cực. Không ít điều tàn ác , phi nhân , nhưng cũng không biết bao điều tốt đẹp, đầy nhân tính đã diễn ra.

    Cách đây ít năm, một ký giả gốc Việt của tờ Seattle Time, Cô Phương Lê ,có một loạt bài nhiều kỳ đăng trên tờ nhật báo lớn nhất bang Washington này. Bài báo nói về những truân chuyên của Gia đình Cô : Cha là một Tiểu đoàn trưởng nhảy dù… mẹ là một phụ nữ gốc Huế.Từ khi Ông bỏ học gia nhập Trường Võ bị Đalat, lập gia đình…Sau chiến tranh, di tản và làm lại cuộc đời ở HoaKy .

    Sau đó cô trở về thăm quê, được bà nội đua ra thăm mộ Ông nội. Cô cũng ghé lại căn nhà cũ của gia đình ở Saigon , tự giới thiệu và xin được vô thăm lại nhà cũ nhưng bị người chủ mới từ chối.

    Trước khi đăng báo, cô có đưa cho bà mẹ đọc lại. Bà nói với cô :
    ” Con viết làm gì , chuyện ngưòi Vietnam, nhà nào chẳng thế? “

    • Phạm Hoàng Trọng
      21/02/2012 lúc 10:47

      “Những bà vợ đau khổ với những gia đình đói rách lầm than, họ lo cho chính họ còn không xong thì lấy gì đi “thăm nuôi” người ở trong tù mà lại tù ở tuốt tận miền Bắc xa tít mù tắp”

      Đọc truyện xong, dù đã qua rất lâu rồi, nhưng vẫn như thấy hiển hiện trước mắt, mà thấy lòng xúc cảm nghèn nghẹn!
      Cái thảm cảnh “tù cải tạo” ngày nào, dẫn đến sự tan nát, đau khổ, chia lìa… của biết bao gia đình ở miền Nam, khó mà xoá nhoà trong ký ức! Sự trả thù thật thâm độc của kẻ gọi là “chiến thắng” thật vô nhân, lịch sử mãi mãi sẽ “ghi công trạng” này của cs!

      Quả là “chuyện người Vietnam, nhà nào chẳng thế?” như anh chinook trích dẫn ở còm trên.
      Nhưng theo tôi, để đúng ý hơn thì: ” chuyện người miền Nam VN sau 1975, nhà nào chẳng thế!”

  6. chinook
    21/02/2012 lúc 12:54

    Chào Bác Phạm Hoàng Trọng.

    Rất đồng ý với Bác.

    Tôi nghĩ có lẽ Bà mẹ cô Phương Lê nhìn rộng hơn. Cả dân tộc Việt, trừ một số nhỏ ích kỷ, độc đoán , tàn bao…. , đều lâ nạn nhân. Tuy sinh trưởng trong Nam, nhưng quê Cha tôi ở Miền Bắc. Mấy năm trước khi về thăm quê, tôi có nhờ một người cháu đưa về quê Cha để thăm mộ Ông bà ….

    Tôi cũng thăm ngưỏi em họ. Người em này năm 54 có vô Saigon rồi lại lộn trở ra vì là con duy nhất của Cô tôi , mà chú tôi thì theo Việt Minh.

    Em tôi là thuơng binh, đảng viên, trong nhà có treo bằng khen và đủ thứ huân chương vì có vô chiến đấu ở Quảng Trị. Nhà ở thị xã nên cũng tương đối ít thiếu thốn . Tôi có hỏi chú là con một, lại là con đảng viên sao lại phải đi chiến đấu ở Miền Nam. Chú nói vì thời đó thiếu người, cả làng cũ, hiện giờ chú đã don lên thĩ xã , đàn ông lứa tuổi chú chỉ còn vài người, không ai lành lặn.

    Còn Chú tôi, trong đợt cải cách ruộng đất, cha bị quy địa chủ , tuy thoát tù tội nhưng….sau đó trở thành một người bất đắc chí, chết vì rượu.

    • Nguyễn Tuấn Anh
      21/02/2012 lúc 22:12

      Chị Năm kể chuyện này làm em nhớ đến một bác ở trong xóm em, bác ấy hay kể: hồi năm 1979 – 1980 lúc chiến tranh biên giới Tây Nam, bác bị bắt đi NVQS, lúc khai lý lịch, ở phần cha mẹ, bác ấy viết thật to dòng chữ ” Cha là ác ôn có nợ máu với cách mạng”.., vì dòng chữ này bác ấy.. “thoát” đợt NVQS đó! Bạn bè cùng lứa ở xã đi đợt NVQS này, khi đưa qua Campuchia đều..”hy sinh thành liệt sĩ ” 100%!!!!!!
      Mỗi lần ngồi nhậu lai rai bác ấy cũng hay nói đại ý như ý của chị Năm: “May thế, nhờ có sự đối xử phân biệt của đảng “ta”.

    • Nguyễn Tuấn Anh
      22/02/2012 lúc 11:22

      Chị Năm: Dạ, hồi còn ở nhà, em cũng có nghe những chú bác lớn tuổi nói về thực trạng “tuyển sinh ĐH với chế độ lý lịch” như thế!
      Bây giờ thì chắc là không còn chuyện “hắc ám” như thế trong tuyển sinh ĐH nữa, nhưng có lẽ vẫn còn áp dụng khắt khe khi ứng cử vào các chức vụ trong tổ chức chính quyền, phải không chị Năm!
      Em thì chẳng thèm, vì làm “cán bộ, công chức” bây giờ, chỉ nghe người dân..chửi thôi!!!!!!

      • 22/02/2012 lúc 11:29

        Đó là chuyện bi hài những năm sau 1975, và kéo dài mãi đến cuối thập niên 80s, tức là “hỏng” đến khoảng 15 năm.

        Em giỏi. Rán giữ như thế, nhé.

  7. Ngô Tấn
    21/02/2012 lúc 13:13

    Với cách viết nhẹ nhàng, tác giả đã tái hiện một góc nhỏ bi thương của một giai đoạn lịch sử khó quên, và lồng vào bối cảnh bi thương đó một câu chuyện thật truyền cảm, xúc động!

  8. 21/02/2012 lúc 16:02

    Cảm ơn em đã đăng một câu chuyện thật hay và cảm động, cảm ơn tác giả đã tái hiện bài viết như một bức tranh buồn.

  9. 21/02/2012 lúc 19:47

    Phan Ba mới … đi bụi đời về, chạy sang chào bác Phay Van đây. Cảm ơn Phay Van đã sang thăm!

  10. Công Thành
    21/02/2012 lúc 21:08

    Mời cả nhà thưởng thức một bài thơ của một thiếu phụ – một người vợ – đi thăm chồng…”bị tù cải tạo của cs” !
    Đọc, để đồng cảm nỗi xót xa, và như thấy…muối xát vào lòng vậy…

    NỖI LÒNG THIẾU PHỤ

    Đêm nay chẳng ngủ anh biết không?
    Em gom thi tứ viết cho chồng
    Thương anh em khóc trên từng chữ
    Thơ lạnh hơn trời đêm lập đông

    Thơ viết cho anh giữa chốn này
    Đâu lời mật ngọt chuốc hương say
    Thân anh cá chậu chim lồng ấy
    Định mệnh an bài bao đắng cay

    Bốn năm thiếu phụ ở bên song
    Năm tuổi đời em ngóng đợi chồng
    Thiên hạ bốn mùa thiên hạ có
    Riêng em chỉ có một mùa đông

    Chinh chiến ngày xưa lắm đoạn trường
    Hoà bình giờ lại quá đau thương
    Sài Gòn – Nghệ Tĩnh xa xôi quá
    Anh ở, em về bao vấn vương

    Em ngỡ ngàng anh đã phụ em
    Xót xa tình ái lạnh môi mềm
    Anh đi biền biệt không về nữa
    Anh của lòng em sao nỡ quên

    Bên cầu em đứng, đợi, chờ, trông
    Đông quá mà sao vắng bóng chồng
    Anh hỡi! Anh ơi! ngày hai buổi
    Đi về anh có nhọc nhằn không?

    Rút thơ trao lén, lại quay đi
    Trời hỡi! Trời ơi! có tội gì?
    Đoàn người “cải tạo” về ngang đó
    Cúi mặt thương chồng lệ ướt mi

    Anh vững tin em mãi đợi chờ
    Anh về em mới hết bơ vơ
    Bến xưa vẫn đợi con đò cũ
    Tàu đỗ về ga, ôi ước mơ…

    ( Trích trong tác phẩm: “Những bước chân tù” của Chánh Trung.
    ( Nữ tác giả khuyết danh – Một người vợ thăm chồng “cải tạo” tháng 11/1979 )

  11. Nguyễn Tuấn Anh
    21/02/2012 lúc 21:49

    Đọc chuyện thấy buồn quá chị Ba, chị Năm ơi!
    Còn nhỏ, nên em chưa cảm nhận được hết cái thâm trầm, sâu sắc về bối cảnh lịch sử trong câu chuyện, nhưng quả thật, cảm xúc đọc xong thấy thật cảm động một cách tự nhiên!

  12. Nguyễn Tuấn Anh
    21/02/2012 lúc 21:52

    ” Nhận được thiệp báo tin, tôi không biết mình vui hay buồn. Hình như không phải là vui hay buồn mà là một thứ cảm giác kỳ lạ cứ lơ lơ lửng lửng lẫn lộn..(…)..Tôi thì không, chẳng hẹn hò được gì cả và chẳng làm được cái gì cả. Tôi có cảm giác như mình thừa.”

    Đọc đoạn văn nỗi lòng tự sự, và “tự phân tích tâm lý” của mình, mà thấy cảm động: Làm Cha trong ngày Vu Quy của con gái…mà không có mặt tham dự!!!!

    Đọc đoạn trên, lại nhớ đến bài thơ 4 câu thật cảm động của bác Đồ Trọc, mà thấy buồn ngậm ngùi..cùng Bác ấy!!! ( Con xin lỗi, xin phép gõ chép 4 câu thơ buồn ấy lên đây, Bác Đồ Trọc nhé )

    CHÚC PHÚC !

    Con đi lấy chồng mà không nỡ gọi Cha
    Ám ảnh ấy đẳng đeo nghiệt ngã
    Thôi! Dẫu phí một phần đời vất vã
    Gạt nước mắt buồn: Chúc Phúc cho con.

    ( Đồ Trọc – 9/2/2012 )

  13. Nguyễn Tuấn Anh
    21/02/2012 lúc 22:31

    Chị Năm ơi, thư giãn một chút, em đề nghị chị tìm post clip nhạc:

    ” This too shall pass ” do nhóm OK Go trình bày, được phụ hoạ bằng màn “hiệu ứng Domino” rất chính xác và rất độc đáo.., đi chị Năm.

    • Nguyễn Tuấn Anh
      22/02/2012 lúc 11:21

      Chị Năm: Không phải Clip đó chị Năm ơi!
      Em và Tín xem Clip này từ trang của Gs Nguyễn Văn Tuấn mà blog chị Năm có dẫn link:
      Chị vào mục Chủ đề “Thư giãn”, click..sẽ thấy Tiêu đề Video này: 10 – Video nhạc vui “This too shall pass, OK Go “!

      Video rất rõ và thú vị lắm chị Năm…

  14. Phạm Sơn
    22/02/2012 lúc 12:22

    Một ký ức dĩ vảng thân phận người “tù cải tạo” thật xót xa, nhưng từ đó, câu chuyện gây xúc động sâu lắng cho người đọc!

  15. trà hâm lại
    22/02/2012 lúc 13:16

    Một kỉ niệm thật sâu sắc !

    • 23/02/2012 lúc 00:37

      Anh cũng trực tiếp chứng kiến những chuyện tương tự, …. những người ra đi , định cư ở nước ngoài thường bỏ mặc những ông chồng đáng thương kia oằn oại trong nước khó khăn ,… ngay cả con gái mà cũng hơn 30 năm không chịu một lần về thăm cha, …. cho dù đã nhận được cái muỗng, cho dù việc đi lại rất thuận lợi , dễ dàng,… chính họ đã làm cho sự mặc cảm lại chồng thêm mặc cảm,… thật đáng nhục nhã, phải không nhỉ ?

    • chinook
      25/02/2012 lúc 11:27

      Chuyện gia đình của những người cải tạo rất tang thưong. Thời đó, có ai biết người đi cải tạo có ngày về. Khoảng 1978, chúng tôi trong trại được học tập là nhà nước chuẩn bị những vùng kinh tế mới trên rừng và đưa những người học tập tốt va gia đình lên định cư.

      Cho nên nhiều cải tạo viên khi được vợ cho biết ý định vượt biên, đã đòng ỷ, thậm chí khuyến khích vì lúc đó quan niệm thoát được ai cũng là quý. Những người sang được Mỹ trong thời gian đầu rất cực để làm lại cuộc đời,hàng ở Mỹ gởi Viêtnam giới hạn 1Kg và tiền gửi chui,khi lọt khi không.Liên lạc vô cùng khó khăn, nhất là khoảng 83-85, có khi cả năm không có thư từ.

      Năm 75 một anh bạn tôi kẹt lai, chị vợ đưa ba con trai chạy thoát. Năm 82 Anh được về. Một hôm chị vợ đến nhà tôi và đưa coi bức thư của Anh. Trong đó Anh viết là mới được nhà nước khoan hồng…….. cuộc sống tuy hơi thiếu thốn nhưng vô cùng thanh thản, và hạnh phúc. Anh cho biết Anh ăn chay trừong ,thiền mỗi ngày và chuyên trị bịnh bằng nước lạnh.Anh cũng tỏ ý ao ước Mẹ con chị trở về để gia đình xum họp vì đất nước đã thống nhứt, thanh bình.

      Chi vợ đưa thư và nói : Ông thấy thằng chả điên chưa, đến lúc này mà còn…..

      Tôi phải hết lời giải thích cho chị hiểu ý thật của Anh vì tôi tin là thư của Anh bị kiểm duyệt.

      Cũng may là Chị nghe theo tôi.

  16. Võ Trung Tín
    22/02/2012 lúc 15:34

    Chị Năm ơi: Có một cô bé thí sinh tên Vũ Đình Tri Giao – 9 tuổi, hát bản “You raise me up” trong chương trình Vietnam’s Got Talent, đang gây “sốt” với cư dân mạng!
    Chị Năm tìm gắn vào đây nghe thư giãn luôn nghen chị…

    • Võ Trung Tín
      22/02/2012 lúc 21:36

      Dạ, đúng rồi chị Năm!
      Xem cô bé Vũ Đình Tri Giao này hát với phong cách thật tự nhiên trong sáng, thấy đáng yêu thật chị Năm nhỉ!
      Chợt nghĩ tới các em thiếu nhi “cháu ngoan bác Hồ” trên các sân khấu ca nhạc chào mừng các ngày lễ.. bị người lớn gò ép, uốn nắn như con rối.., mà thấy tội nghiệp cho các em!!!!

    • Võ Trung Tín
      24/02/2012 lúc 10:35

      Chị Năm: Dạ, Kịch bản bi hài kịch: Toàn bộ người dân Bắc Triều Tiên..”Khóc nhép”..mới tài tình hơn chị Năm ơi!!!!! hihihihihihi….

  17. Võ Trung Tín
    24/02/2012 lúc 10:31

    Ủa!!!! Có chuyện gì mà sao chị Năm khoá bình luận ở entry Bs Yersin dzậy..chị Năm?

  18. chinook
    26/02/2012 lúc 06:00

    Phay Van :
    Nếu là em trong trường hợp thư bị kiểm duyệt thì em sẽ không viết “lách” như thế, rất dễ gây hiểu lầm. Thà là không viết, bác ạ.
    … chuẩn bị những vùng kinh tế mới trên rừng và đưa những người học tập tốt va gia đình lên định cư: khi chịu hết nổi thì lại gồng gánh nhau về, lúc đó thì nhà mất rồi còn đâu. Những kẻ “cơ hội” sang đoạt nhà cửa rất nhanh.

    Tôi nghĩ Anh bạn tôi viết như thế vì biết chắc là thư sẽ bị kiểm duyệt. Tôi liên tưởng đến Ông Trần Dần “tự xỉ vả” trong những ghi chép riêng của mình. Rất có thể nhờ đó họ mới sống sót, qua khỏi.

    Khi nghe về những dự án “kinh tế mới” dành riêng cho chúng tôi, tôi có cảm tưởng đó là những trại giam chúng tôi và gia đình. Làm sao mà trở lại thành phố khi không có giấy phép đi lại, hộ khẩu và đủ mọi hàng rào kiểm soát?

    • 26/02/2012 lúc 06:20

      Nói đến vụ kiểm duyệt em nhớ hồi năm 1954- 1955 có loại bưu thiếp do ngành bưu điện phát hành. Nó là một tấm giấy cứng khổ A5, trên đó có ghi những dòng chữ “định hướng” để giúp hai bên người gởi và người nhận đi đúng “lề”, tức là chỉ thông tin gia đình mà không nói chuyện chính trị. Nó là một dạng thư để mở, bác ạ, dùng thông tin giữa hai miền Nam- Bắc. Hiện em còn giữ một cái như thế.

      Đã có những gia đình bị đẩy đi kinh tế mới rồi tìm cách về. Người chồng đi học cải tạo, ở nhà vợ con phải đi kinh tế mới. Ra tù họ sống với nhau rất tội. Họ đâu được đào tạo để trở thành người cầm cuốc? Họ là những người lính bồng súng để bảo vệ đất nước. Con cái họ đang học hành tấn tới. Rồi thời thế đổi thay… Đâu phải lỗi của họ?
      Bác nói phải, hồi xưa đi lại phải xin giấy phép rất khó khăn. Hộ khẩu là một chính sách vô cùng vi phạm nhân quyền, chỉ có trong chế độ mới. Tuy thế em đã thấy có những gia đình trốn về được, nhưng rồi không còn nhà cửa, rồi lại ra đi…

  1. No trackbacks yet.

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Twitter picture

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Twitter Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s

%d người thích bài này: