Truyện Ngắn của chị Cam Li Nguyễn thị Mỹ Thanh
Thầy Dạy Công Dân
Cam Li Nguyễn thị Mỹ Thanh
Thầy Văn bước vào lớp. Như một thông lệ, cả lớp đứng dậy. Thầy đứng thẳng, yên lặng một giây, mặc nhiên là một hành động chào lại. Thầy trò lớp này vẫn là như thế.
Thầy ra hiệu cho cả lớp ngồi xuống, rồi bước đến bên bàn của Thầy, đặt chiếc cặp da lên đó, và nhìn một lượt khắp lớp. Đôi mắt Thầy dừng lại ở bàn cuối. Bốn đứa con trai chột dạ, không dám ngó Thầy.
Thầy bảo cả lớp mở vở ra chép bài. Mọi người nhìn nhau ngạc nhiên. Thường thì Thầy gọi học trò lên trả bài trước rồi mới cho chép bài mới sau. Ngạc nhiên, nhưng không ai dám hỏi Thầy một câu. Thầy đọc, giọng chậm rãi, rõ ràng. Thầy khác với cô Loan dạy Việt văn ở điểm là cô Loan thường nhờ một trò viết chữ đẹp lên bảng viết bài cho cả lớp chép theo. Còn Thầy, với giọng cứng rắn, sang sảng, Thầy như người thầy bậc tiểu học đọc chính tả. Đó, cái nề nếp của lớp này là vậy.
Lớp Chín A. Cái lớp học “anh cả” trong một ngôi trường tư thục nhỏ chỉ dạy bậc trung học đệ nhất cấp. Còn có một lớp Chín nữa, lớp Chín B, buổi chiều. Nhưng hình như trong cả trường chỉ có lớp Chín A này là sinh động hơn cả, theo nhận xét của các thầy cô. Sinh động là bởi vì hầu hết các học sinh đều học khá, hăng hái tham gia các sinh hoạt do trường đề ra: làm bích báo, làm văn nghệ, đi công tác xã hội… Sinh động là bởi có vài trò rất giỏi được cử đi dự thi toán, thi vẽ, thi văn chương toàn thủ đô Sài Gòn. A! còn nữa, mặc dù môn Anh văn chưa có trò nào được vinh dự đi thi nhưng học trò lớp Chín A cũng đã lập nên một “English speaking club” để trau giồi tiếng Anh và được Thầy hướng dẫn là giáo sư Anh văn dìu dắt. Có một môn học, vâng, có một môn, chưa bao giờ nghe nói đến đi dự thi hay thành lập câu lạc bộ gì cả. Đó là môn Công dân giáo dục. Đối với học sinh, không riêng gì học sinh lớp này đâu, học môn Công dân là một điều hiển nhiên, bởi vì chương trình đã là như vậy từ thuở nào rồi. Và đi học là phải học đều tất cả các môn, là bổn phận của học sinh.
Thế nhưng tuần rồi đã có một điều bất thường đối với Thầy: đó là sự vắng mặt của bốn nam sinh ngồi ở bàn cuối lớp. Họ là những học sinh học rất khá nhưng đã tình nguyện xin ngồi ở bàn cuối để các thầy cô đỡ phải cực khổ. Nhưng giờ Công dân tuần rồi, họ đã “cúp cua”. “Cúp cua”! Nghỉ không có lý do ốm đau hay bận việc quan trọng được người nhà xin phép… thì gọi là “cúp cua”. Thầy định tuần này sẽ hỏi tội họ ngay khi vào lớp, nhưng rồi hôm nay Thầy không làm. Cả lớp như cũng chờ đợi chuyện đó xảy ra. Vài nữ sinh len lén nói chuyện thật nhỏ trong khi chép bài, Thầy nghe được nhưng lờ đi.
Và rồi bài cũng đã được chép xong. Thầy giở sổ điểm ra. Học trò chờ đợi Thầy sẽ gọi một ai đó lên trả bài. Nhưng cũng không. Ôi! Nếu có điều gì khó chịu nhất đời thì chắc là đây rồi! Cái im lặng thật đáng nể!
Bốn anh con trai ngồi ở bàn cuối lớp, dãy nam sinh, đưa mắt nhìn nhau. Và rồi một trò đứng dậy. Trò Bảo. Gương mặt sáng sủa, dáng người nhanh nhẹn, Bảo là nam sinh học giỏi nhất lớp. Bảo tiến đến bàn Thầy, đi ngang bao nhiêu dãy bàn trước sự ngạc nhiên dò xét của các bạn. Bảo nói với Thầy:
– Thưa Thầy, em xin được trả bài ạ!
Thầy hơi nghiêng đầu, nhìn Bảo, hỏi:
– Em muốn trả bài? Bài nào?
– Thưa Thầy, bài Công dân kỳ trước ạ!
– Kỳ trước?
– Dạ, bài ” Quốc kỳ và Quốc ca” ạ!
– Em có bài đó sao?
Bảo đỏ mặt, giọng hơi ấp úng:
– Dạ, em đã mượn vở của bạn để chép ạ!
Nét mặt của Thầy có hơi tươi lên một chút, nhưng Thầy vẫn nghiêm giọng:
– Còn các em kia?
Ba nam sinh còn lại của bàn cuối đồng đứng dậy, nói:
– Thưa Thầy, chúng em cũng đã có chép bài rồi ạ!
Có vài tiếng xì xào trong số nữ sinh. Thầy giơ tay lên:
– Các em giữ im lặng. Thầy không có ý định gọi các em trả bài hôm nay.
Như không hẹn mà cùng có chung phản ứng, ba anh con trai tiến lên phía Thầy. Bảo nói thay cho cả bọn:
– Thưa Thầy, chúng em xin lỗi Thầy, tuần trước vì… ham coi “xi-nê” nên chúng em đã.. “cúp cua” giờ của Thầy. Chúng em đã biết lỗi. Xin Thầy …
Thầy nói thật nhẹ:
– Không phải giờ của Thầy đâu! Giờ của các em đó chứ! Học là học cho các em mà! Thầy chỉ là người dẫn dắt.
Nhật, lớn tuổi nhất, nói khẽ:
– Thưa Thầy, chúng em hiểu.
– Các em về chỗ đi! Thầy không có ý định khảo bài các em. Hôm nay Thầy có một việc quan trọng để nói với cả lớp.
Cả lớp thở phào trong khi bốn nam sinh về chỗ, nhưng rồi một sự chờ đợi khác lại đến.
Thầy đứng trên bục giảng, nói như đang giảng bài:
– Hôm nay là buổi dạy cuối của Thầy. Thầy muốn nói ngắn gọn rằng Thầy sẽ tạm xa mái trường để nhập ngũ. Chắc chắn các em sẽ có một thầy hay một cô giáo mới phụ trách môn này. Nói chung, sẽ không có gì khó khăn cho các em cả đâu! Điều mà Thầy muốn nhắn nhủ các em hôm nay…
Đám học trò như nín thở. Thầy dừng lại một tích tắc vì nghe có tiếng than nho nhỏ từ dãy nữ sinh. Thầy nói tiếp:
– … đó là hãy cố gắng học hành. Điều này nói ra có vẻ hơi thừa, nhất là đối với lớp này là một lớp khá ngoan, mà Thầy rất ưng ý. Thầy đã dạy ở nhiều trường công lập cũng như tư thục. Tính ý của học trò, Thầy đều hiểu hết. Học trò trường công phát triển đều nhau, không chênh lệch nhiều. Trái lại, học trò trường tư đa dạng hơn, do không có tuyển chọn qua những kỳ thi. Nhưng thú thật, Thầy quan tâm nhiều đến học trò trường tư. Tại sao vậy? Vì đó là bức tranh sống thật nhất của xã hội. Có những học sinh thật giỏi, thật ngoan, nhưng cũng có những trò thật kém, có những trò nổi loạn. Đúng không? Rất tiếc là Thầy phải rời bỏ cái khung đời này để bước vào một xã hội khác, sẽ rất khác: đó là quân ngũ. Thầy chỉ mong rằng, với những bài giảng về Công dân giáo dục mà Thầy đã gửi đến các em trong gần một niên học qua, các em sẽ không xem đó là những bài học bắt buộc, những bài chỉ nhớ để trả bài rồi sau đó quên đi, những câu chuyện qua loa không ăn nhập chút nào với cuộc sống. Mà các em hãy đem chúng vào đời như một hành trang quý báu. Thôi! Ý của Thầy chỉ có thế. Mai sau, mong rằng, có duyên, Thầy sẽ gặp lại các em.
Lần đầu tiên học sinh nghe Thầy nói những câu có vẻ văn hoa khác với cách nói bình dị của Thầy thường ngày. Sự im lặng như đã đến hết sức của nó, khi Thầy ngưng câu nói. Bình thường, nếu người ta chịu khó để ý, sẽ thấy mỗi khi xung quanh mình quá im lặng, có một thứ “âm thanh” nghe muốn vỡ tai, đó là tiếng rít “o… o” rất khó chịu. Thế nhưng, lần này, thầy và trò đã nghe được tiếng của một con ve bên ngoài cửa lớp. Thật sự là tiếng ve! Tiếng ve đầu mùa hạ! Con ve đậu trên một cái cây to trong sân trường rợp bóng mát hay chăng? Con ve cất tiếng hát, một lúc sau đã có tiếng của cả một bầy ve. Không hẹn mà cả thầy và trò đều nghe dâng lên một niềm cảm động.
*
Như thế đó, buổi dạy cuối cùng của Thầy Văn, thầy dạy môn Công dân giáo dục của lớp Chín A! Thầy rời mái trường vào đầu mùa hạ. Vắng thầy Văn, học với một cô giáo mới, cả lớp rồi cũng quen dần. Đám học trò, sau mùa hạ đó, cùng lên lớp Mười, lớn thêm được một chút, vì đã vào trung học đệ nhị cấp. Bốn đứa con trai, Bảo, Đăng, Nhật, Vũ, vẫn chơi với nhau khắng khít như trước. Nhưng không bao giờ họ dám lập lại một việc, mà đối với họ là một lỗi lầm. Đó là “cúp cua”. Nhật, lớn nhất bọn vì gia cảnh nghèo phải bỏ học một năm, luôn tự nhận lỗi về mình vì đã “xúi dại” mấy đứa nhỏ hơn. Cả bọn bảo nhau nếu gặp lúc khác thì chắc chắn đã bị khiển trách và ăn mấy cái “trứng vịt” rồi!
Thầy rời mái trường vào đầu mùa hạ. Trong tâm luôn có tiếng ve làm Thầy nghe luyến nhớ. Những lần về phép Thầy thường đi ngang ngôi trường tư thục mà Thầy đã rất yêu mến này, đứng lại một lúc lâu, nhưng không vào. Thầy đã đi qua một khung đời rất khác. Bên đó là đỏ lửa. Ở đây là xanh trời. Thầy không muốn làm xao động không gian bình yên này.
Mấy mùa hạ đi qua. Học trò của lớp Chín A năm nào nay đã đến tuổi vào đại học. Lên đại học, không còn có môn Công dân giáo dục nữa. “Môn phụ” đã biến mất!
Thầy không có dịp về lại trường cũ, vì chiến trận đã đến hồi khốc liệt. Một ngày nắng lửa trên đồng hoang, Thầy gặp lại Bảo, người học trò trắng trẻo khôi ngô học giỏi ngày nào. Bảo tình nguyện vào lính, đã đi đánh trận nhiều nơi và mới được thuyên chuyển về đơn vị của Thầy. Bây giờ thầy trò cùng chia xớt với nhau từng bịch gạo sấy, mời nhau từng điếu thuốc. Tâm tình cũng dễ dàng bộc lộ. Bảo chân thành nói:
– Thầy ơi! Lúc em còn nhỏ, đi học tiểu học, nhìn người thầy như một người cha vì tuổi đời chênh lệch nhiều. Học bậc cao hơn thì khoảng cách tuổi tác giữa thầy và trò ngắn hơn; nhiều thầy mới ra trường, quá trẻ, chúng em có cảm giác như đó là người anh. Nhưng thái độ e dè đối với các thầy vẫn luôn có. Người thầy đứng trên bục giảng thật khác với người thầy trên chiến trường. Bây giờ, em mới thật sự học được bài học sống ở thầy. Thầy sống những gì thầy đã dạy.
Thầy giật mình:
– Em nghĩ như thế?
– Vâng, đúng là như thế, thưa thầy. Bọn chúng em, bốn đứa chơi thân với nhau, vẫn thường nói với nhau rằng sao chúng em lại làm ra một điều khó tha thứ. Sao chúng em lại “cúp cua” giờ Công dân? Chúng em ỷ mình học giỏi ư?.. Thầy ơi! Thầy có buồn chúng em không? Thầy có tha thứ chúng em không?
Thầy cười xòa:
– Bỏ đi! Thầy chẳng giận chẳng buồn ai bao giờ. Nói cho thầy nghe, mấy anh cùng “cúp cua” đó, ra sao rồi?
– Anh Nhật lớn nhất, đi lính trước em một năm. Sau đó đến em. Còn Vũ và Đăng đã vào đại học.
– Tại sao em không vào đại học?
– Thưa thầy, em muốn đi lính. Sau khi giải ngũ về em sẽ đi học tiếp ạ! Tuổi trẻ còn dài…
– Bây giờ thầy trò gặp nhau ở đây cũng là một trường học lớn. Thầy trò ta cùng học môn Công dân giáo dục phải không?
– Dạ.
Hai thầy trò cùng im lặng, lắng nghe tiếng đại bác vọng về từ xa…
Đêm đó, sau chuyến hành quân, Thầy bị thương nhẹ ở chân. Thầy ôm Bảo trong tay. Thầy vuốt mắt Bảo. Bảo đã làm được cái việc trả bài cho thầy. Một bài học sống.
*
Hết xuân đến hạ. Thu tàn, đông đến. Thầy đã trải cuộc đời trên chiến trường biết bao năm! Bị thương nặng, nhẹ cũng nhiều. Trong người của Thầy đầy những vết sẹo chiến tích. Nằm quân y viện to, nhỏ, hay dã chiến, cũng đã biết bao lần. Cả cái kinh nghiệm được đục khí quản để gắn ống thở tạm, hay đeo lủng lẳng một cái túi đi từ ruột ra ngoài, chờ chữa lành bên trong, Thầy cũng đã có nốt. Gia đình khuyên Thầy giải ngũ. Thầy không chịu. Thầy giã từ nghề dạy học luôn rồi! Gặp gỡ bạn bè, đồng nghiệp, học trò… đến, đi, nhìn họ thành công, thất bại, sống, chết. Nhìn thấy đời mình cũng đã già dặn đi theo ngày tháng. Thầy cũng thèm trở lại bục giảng lắm chứ! Nhưng cứ mỗi một câu, Thầy nói với mọi người: “Chờ khi đất nước thanh bình…”
Và Thầy phải ngưng cầm súng. Thầy đi vào trại tù cải tạo, như hàng vạn quân nhân khác. Ước mộng của Thầy đã sụp đổ. Thôi thì cùng chia xớt với anh em đồng đội nỗi đau nhục này! Bài học Công dân giáo dục “Quốc kỳ và Quốc ca” nhức nhối trong lòng. Mỗi buổi sáng trước giờ đi lao động, Thầy và các bạn tù phải tập trung để chào cờ. Thầy nhắm mắt lại chặt đến nỗi nghe như dao đâm để thấy màu cờ vàng chan chứa. Thầy bấm vào tay mình bật máu để hát trong óc, hát không bằng lời: “Này công dân ơi!!!!…”
Thầy ra trại. Thân thể lại mang thêm một số thương tích vì “lao động”. Cảnh sống đã thay đổi… Thầy tìm đến thăm một vài đồng nghiệp cũ, ngạc nhiên khi thấy họ đến trường dạy học trong những bộ quần áo quá dễ dãi. Ngày xưa các thầy cô đứng trên bục giảng ăn mặc nghiêm chỉnh, bây giờ các thầy đi giép hoặc “xăng-đan”, các cô thì mặc quần đen áo cộc. Thầy cô dạy học xong, ra về, trước xe lủng lẳng mấy bịch cá, thịt, rau đậu mắm muối “tiêu chuẩn”. Thầy lắc đầu ngao ngán. Thầy không thể làm gì hơn là chọn nghề mộc, một nghề có thể giúp kiếm sống qua ngày và không vướng bận tâm trí. Cái nghề của Chúa Giê-su khi còn nhỏ đây mà! Cái nghề Thầy đã học được ở trong trại tù. Cái nghề trong những nghề dạy cho con người ta tính kiên nhẫn và lương thiện.
Hết thời “thắt lưng buộc bụng”, đến lúc “mở cửa”, thành thị chen chúc người và xe. Nhiều khi Thầy ngơ ngác đứng nơi ngả tư đường, mấy mươi phút chưa băng qua được. Không có ai tôn trọng luật lệ giao thông. Đèn xanh đèn đỏ mọi người lờ đi như không thấy. Có khi Thầy não lòng khi một đám tang đi qua, không có ai nhường đường, hiếm có người ngả mũ chào người chết. Những gì gọi là bài học Công dân giáo dục đâu cả rồi? Người ta sống với “văn hóa phong bì”, “thủ tục đầu tiên là tiền đâu”, “mạnh được yếu thua”…
*
Thầy ra khỏi nước, như hàng trăm ngàn người khác. Thầy vào trường, làm học trò. Thầy hân hoan thấy lại màu cờ vàng một thời rực rỡ trong tuổi trẻ của Thầy. Thầy được tự do hát bài Quốc ca “Này công dân ơi…” mà không phải mím môi. Nhưng một thời Thầy rơi vào sự trầm cảm tột độ vì nghĩ đến quê hương đã khuất bóng. Thầy mang tâm trạng như những thầy đồ của một thời mất nước. Thầy đã không còn chỗ để trở lại bục giảng. Thầy nhận nơi này làm quê hương thứ hai. Thầy luôn tự an ủi mình: “Quê hương không chỉ là mảnh đất, mà còn có cả tình người”. Và… như thế, Thầy đã sống được. Thầy chọn làm việc trong ngành truyền thông và đã đến gần được với tâm tình người Việt xa xứ.
Vào một ngày, Memorial Day, Thầy cùng gia đình đi lên thủ đô. “Lên thủ đô!” Thầy nói rất tự nhiên như vậy rồi nghẹn lời vì nghĩ đến thủ đô của Thầy ngày nào. Thầy đứng bên bức tường trên đó ghi tên những người lính Hoa Kỳ bỏ mình trong chiến tranh Việt Nam, trong trí Thầy hiện lên tên của những người bạn bè đồng đội. Họ đã không có một bức tường để ghi tên! Thầy đặt một bó hoa xuống nơi chân tường. Một gương mặt rạng rỡ chợt sáng lên như được phát ra từ mặt đá hoa bóng loáng. Gương mặt của Bảo. Thầy lạnh người. Thầy muốn khóc.
– Thưa Thầy!
Thầy giật mình quay về hướng tiếng nói sau lưng. Thầy nhận ra ngay. Ôi! Là Vũ, cậu học trò liến thoắng, đã có lần “cúp cua” giờ Công dân.
– Thưa Thầy, gặp lại Thầy, em mừng quá! Thầy có khỏe không ạ?
– Thầy khỏe. Thầy cứ ngỡ… là trò Bảo.
– Bảo đã mất rồi, thưa Thầy, Thầy là người ở bên cạnh Bảo lúc ấy…
Thầy bùi ngùi:
– Phải… Gặp lại em, Thầy càng nhớ Bảo. Thế những người bạn thân của em ra sao?
– Anh Nhật ở lại trong nước. Anh ấy trở thành thương phế binh, hiện nay sống rất khổ cực. Đăng thì đi với gia đình sang Úc, cũng đã có việc làm tử tế.
– Còn em, em làm nghề gì?
– Dạ, em theo nghề giáo.
Thầy nói như reo:
– A! Vậy sao?
Vũ vui vẻ:
– Dạ, em dạy môn Civics.
– Môn Civics?
– Dạ, môn Công dân giáo dục, thưa Thầy!
Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh
(nguồn: Thư Quán Bản Thảo số 45 tháng 1 năm 2011)
***
Cây Bút Của Ba Tôi
Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh
Nếu phải làm một bài luận văn với nhập đề lung khởi cho đề tài “Ba tôi”, tôi sẽ viết như sau:
“Tôi nghĩ ai cũng có thể viết một chút về “cha tôi”, ngay cả những người con chưa hề thấy mặt cha mình. Một đứa bạn thân của tôi, không biết cha mình là ai, cũng đã tự nhìn vào gương và viết những cảm nghĩ về cha của nó thật cảm động. Riêng tôi, không cần tưởng tượng, tôi cũng thấy cha tôi mỗi ngày. Khi ở Việt Nam, tôi biết ba tôi là một nhà giáo…”
Còn nếu phải nhập đề trực khởi, tôi sẽ vào đề ngay như thế này:
Đó là vào năm 2003, khi cha con tôi được bác tôi bảo lãnh qua Mỹ.
Vâng, đó là vào năm 2003.
Chỉ “bị” ở không có một tháng mà cha con tôi đã cuồng chân cuồng tay lên rồi! Sau vài đợt được nhà bác tôi đưa đi chơi vài nơi trong và ngoài tiểu bang, ba tôi nhất quyết đi tìm việc làm. Với chiếc xe Honda Accord cũ kỹ bác tôi cho, ba tôi đã đi khắp các siêu thị để xin việc. Thật không may, cha con tôi qua Mỹ đúng vào thời điểm mà theo cách nói của mọi người lúc đó là “kinh tế xuống”. Ba tôi thường trở về nhà với gương mặt uể oải. Bác tôi khuyên ba đừng vội vàng làm chi, từ từ rồi kiếm việc, bác có sức bảo bọc hai cha con. Bác nói thì nói thế, chứ hai cha con tôi cũng nhìn thấy hoàn cảnh của nhà bác, đông người, khá chật vật trong hoàn cảnh kinh tế hiện tại. Tiền điện, tiền nước, tiền chợ búa, tiền bảo hiểm… cũng làm nhức đầu lên rồi! Đến lượt tôi cũng muốn đi làm. Tôi đâu có thể ở chơi không một năm trong khi chờ chính phủ trợ cấp cho đi học. Vâng, phải đến năm tới thì tôi mới được đi học miễn phí. Cho nên tôi quyết tìm việc làm để có tiền. Cũng đơn giản là để hai cha con có thể tự lập, ra thuê nhà ở riêng, khỏi làm bận lòng bác tôi.
Và tôi cũng mang bộ mặt thất vọng về nhà sau những lần đi tìm việc. Đến đâu tôi cũng nhận được những cái lắc đầu kèm theo một nụ cười và tiếng “sorry”. Ôi! Nếu là thời gian cách nay năm mười năm thì, cũng theo lời của bác nói, cha con tôi qua là có thể xin đi làm hãng dễ dàng. “Làm hãng”, nói chung là làm tại các hãng điện tử, bây giờ cũng sa sút rồi! Cái thung lũng hoa vàng, “silicon valley” nơi chúng tôi cư ngụ, cũng như một miếng bọt biển đã no nước rồi!
Đến một ngày tôi may mắn tìm được một chân bán hàng trong tiệm McDonald’s khá xa nhà một chút, tôi hoan hỉ đáp xe bus đi làm, để ba dùng chiếc xe cũ chạy việc. Cha con tôi có chút niềm vui là công việc bán thời gian của tôi đem lại một ít “tiền còm” để xài. Đêm đêm ba lái xe đi đón tôi, hai cha con về nhà khi gia đình bác đã ngủ say. Chúng tôi rón rén vào phòng đóng cửa lại và bàn bạc về những chuyện sắp tới. Ba cứ khuyên tôi đừng buồn, hãy cố gắng. Ba không biết rằng tôi cũng mong ba đừng buồn, hãy yên tâm. Ở bên nhà, ba đi dạy, còn tôi mới bước vào đại học. Ba chọn đi theo “diện” bảo lãnh do bác tôi lo. Trước khi đi, ba cũng đã “vận động” tôi nhiều lắm. Ba nói qua Mỹ không phải là đến xứ thiên đường, mà mọi việc đều phải bắt đầu lại hết. Tôi sẽ phải gián đoạn việc học hành một ít lâu. Ba sẽ không đi dạy, không làm thầy nữa. Tôi nghe hết. Và mọi việc đều xảy ra đúng như chúng tôi tiên liệu. Do đó chúng tôi không buồn hay thất vọng, chỉ là hơi sốt ruột một chút.
*
Có một hôm, tôi thấy ba ngồi miệt mài gõ chiếc máy computer cũ bác cho cha con tôi. Ba gõ cả buổi, quên mất đêm đã khuya. Tôi mắt nhắm mắt mở nhắc chừng, ba tôi mới nghỉ tay. Hôm sau ba cho tôi xem, đó là một truyện ngắn. Tôi đọc, rồi như có một sức hấp dẫn lạ kỳ, tôi đọc ngấu nghiến. Tôi hỏi ba:
– Truyện này… của ba?
– Phải.
– Ba mới viết?
– Không, ba viết lâu rồi, hồi… xửa xừa xưa.
Tôi trợn tròn mắt:
– Thật không ba?
– Thật.
– Hay quá! Sao con không hề biết?
– Vì ba không nói.
– Sao bây giờ ba mới gõ ra?
– Ba nhớ lại, gõ ra, để… ba đăng báo.
– A! Con hiểu rồi! Vậy khi xưa ba có đăng chưa?
– Ba đăng rồi! Có nhiều người đã đọc.
Tôi vỗ tay reo lên:
– Hay quá! Ba là văn sĩ.
– Văn sĩ cái gì! Chỉ là viết cho vui.
– Không ba ơi! Con thấy hay lắm! Có ý nghĩa lắm! Vậy là ngày xưa ba viết bài đăng báo?
– Ừ.
– Ba có in sách không?
– Có.
– Vậy sao … con không nghe ba nói bao giờ?
Ba ngập ngừng:
– Vì ba đã ngưng viết trước khi con ra đời.
Tôi trố mắt không hiểu. Nhưng ba như không muốn nói nhiều. Ba lảng qua chuyện khác.
*
Tôi trở thành “thầy cò” cho ba tôi. Thật vui, bởi vì tôi vừa được đọc truyện do ba tôi nhớ lại và gõ, vừa được tin tưởng giao cho nhiệm vụ này. Chữ nào ba tôi gõ nhanh quá bị sai thì tôi sửa lại. May quá, tôi cũng khá giỏi môn chánh tả khi còn ở bậc tiểu học. Nhưng tôi lại là đứa học trò dở môn văn khi lớn lên. Nói chính xác hơn, là tôi ghét môn văn. Mà học trò thì ai cũng biết rằng hễ mình ghét môn nào tất mình sẽ trở thành người học dở môn ấy.
Ba tôi đăng báo. Mà là báo “ảo”, báo trên internet. Báo internet thì không có chút “tiền còm” nào hết. Ba nói khi “xửa xừa xưa”, ở Việt Nam ấy, cái thời chữ nghĩa còn được trân trọng ấy, tác giả có bài đăng báo sẽ nhận một số tiền gọi là “tiền nhuận bút”. Chà, chữ này đối với tôi nghe rất lạ đây! Nhưng ba giải thích với tôi tại sao ba say sưa “gõ” truyện của ba như vậy. Thứ nhất là vì ba còn đang thất nghiệp, thời gian trống chẳng để làm gì. Thứ hai là ba cảm thấy mừng khi một số người Việt ở đây muốn gầy dựng lại các nhóm văn học đã bị thất tán cùng với bài vở. Ba đồng lòng với ý hướng ấy nên ba làm. Thế thôi! Tôi thấy ba cũng có lý.
Có một điều khiến tôi chạnh lòng lắm. Số là do một hôm tôi buột miệng hỏi ba:
– Vậy má ngày xưa có biết ba đã viết văn không?
– Có.
– Má có đọc, có thưởng thức văn của ba không?
– Không. Má không thưởng thức.
Tôi hết hồn, nín khe luôn. Tôi biết ba má tôi cùng tuổi, học cùng lớp cùng trường, tức là sống cùng thời. Nhưng tôi tự an ủi ngay: “Không cùng tư tưởng, chịu thôi!”
Tôi hãnh diện có cha là một người viết tiểu thuyết. Dù là đứa học trò dở văn, ghét môn văn, tôi vẫn cảm nhận được những gì ba tôi gửi gắm trong văn. Ba nói tôi đừng gọi ba là nhà văn hay văn sĩ hoặc tiểu thuyết gia gì hết, hãy cứ gọi là “người viết” đủ rồi. Tôi “dạ” và nghĩ rằng ba thật “ngộ!”. Văn của ba tôi không cầu kỳ, không bí hiểm, không dùng sáo ngữ. Ba không viết những chuyện xa xôi trên mây trên gió. Tôi đọc và hiểu hết cái tình ba tôi gửi vào những nhân vật tiêu biểu cho thời tuổi trẻ của ba. Tôi thấy nó sống động lắm, gần gũi lắm. Tôi đã hình dung được khung cảnh xã hội của ngày đó ra sao. Tôi cũng đã hình dung ra ba tôi thời đi học, thời đi dạy, thời đi lính là như thế nào rồi!
Nhưng có một điều làm tôi chạnh lòng hơn nữa. Đó là ba đã ngưng viết đến gần ba mươi năm. Ba chỉ nói ra cái “sự kiện” đó mà không kèm lời giải thích. Tôi có hỏi “vì sao” thì ba chỉ nói:
– Sau này ba sẽ nói cho con nghe. Bây giờ, lo đi làm McDonald’s đi, năm tới đi học. Con sẽ học để bước vào “dòng chính”. À mà ba cũng sẽ đi học vào năm tới chứ! Muốn bước vào “dòng chính” thì phải đi học. Chính phủ giúp mà! Cái chuyện viết lách của ba chỉ là cho vui, đừng để tâm đến nhiều. Nó đã thuộc về quá khứ.
Tôi tạm yên tâm. Tôi thấy tôi đã hiểu được ba tôi nhiều hơn trước. Tôi, cái thằng con trai học giỏi nhưng hời hợt lắm!
*
Ba vẫn chưa có việc làm! Cái nghề nhà giáo dạy Toán của ba không dùng được. Ba muốn đi dạy lại thì năm tới ba sẽ bắt đầu đi học lại. Ngành nào cũng vậy mà! Hiện tại Ba vẫn muốn có một công việc nào đó, việc gì cũng được, để kiếm tiền. Hai cha con ước mơ có thể ra mướn nhà. Đi đâu ba cũng nghe câu “kinh tế xuống”. Ba thở dài ngao ngán.
Ba lại gõ, say sưa gõ. Không biết ở đâu mà truyện của ba tôi nhiều thế. Rồi đến một ngày ba khoe tôi một bài viết mới. Tôi reo lên:
– Ba đã viết lại!
Tôi không thể tả được niềm vui của tôi, lẫn một ngạc nhiên thật lớn. Ô, tôi, cái thằng hời hợt đến thế, vẫn cảm nhận được cái vui của người cha. Rồi nghĩ đến má tôi, tôi lại nao lòng. Ba má đã không sống với nhau từ khi tôi tròn mười tuổi. Ba đã thiếu ít nhất một người không đồng cảm.
Một ngày, có người bạn của bác tôi ghé chơi. Bác giới thiệu mọi người với nhau. Hóa ra không phải một cuộc ghé chơi tình cờ, mà là có chủ ý của ông khách. Bác tôi để cho ông bạn nói chuyện riêng với ba. Khi ông ấy về rồi, ba kể cho tôi nghe.
– Con biết không, ông ấy tình cờ đọc và biết ba “còn sống”.
– Ba “còn sống”?
– Phải. Ông ấy nói có lần người ta đồn ba đã chết. Lâu rồi!
– Hả??? Ông ấy đã quen ba sao?
– Không, chỉ biết ba qua sách báo ngày xưa thôi! Nói ngắn gọn là ông ấy đọc trên inernet biết ba còn sống và đã viết lại, rồi tình cờ qua chuyện trò với bác con, ông ấy biết ba là em của bác, ông ấy đến để nhờ ba một việc.
– Việc gì ba?
– Ông ấy nói muốn giúp ba có công việc làm kiếm tiền.
– A! Vậy ba có bằng lòng không? Việc gì?
– Viết.
– Vậy thì hợp với ba quá rồi! Có tiền nhuận bút không ba?
– Có, mà lại rất nhiều nữa.
– Vậy ba viết đi! Ông ấy làm báo nào?
– Không, ông ấy không làm báo, mà ông ấy nhờ ba viết chuyện đời của ông ấy.
– Vậy lại càng hợp với ba nữa! Ba đã nói với con là các nhân vật trong truyện của ba là có thật, ít nhất cũng thật vài mươi phần trăm.
– Nhưng con à, ba có cái sự sáng tạo của riêng ba. Cuộc đời của ai đó chỉ là chất liệu cho ba viết mà thôi! Ba phải nhào nặn câu chuyện theo ý ba. Và trong mỗi câu chuyện, không chỉ hoàn toàn là chuyện của một người, mà là kết hợp nhiều cuộc đời, nhiều cảnh sống.
– Thì ba cứ nói với ông ấy là ba sẽ kết hợp…
– Ông ấy muốn ba viết và nói rõ đó là cuộc đời của chính ông ấy.
– Con không hiểu ba ơi!
– Đây này! Ông ấy nhờ ba viết một quyển hồi ký cho ông ấy, ghi tên tác giả là ông ấy, rồi ông ấy trả tiền “nhuận bút” cho ba. Nói tóm lại là… ông ấy “thuê” ba viết.
– Nghĩa là ba phải ẩn danh?
– Đúng.
Tôi thộn mặt ra. Điều này tôi chưa bao giờ nghĩ đến. Ba im lặng. Chắc ba cũng chưa bao giờ nghĩ đến. Ba nếu có nghĩ thì chắc sẽ nghĩ đến một ngày nào ba viết hồi ký cho chính ba. Sóng êm biển lặng hay giông tố bão bùng cũng vẫn chỉ là cuộc đời của ba.
Bác tôi cũng đã nghe ba kể lại cuộc nói chuyện giữa ba và ông bạn của bác. Khác với tôi, bác có ý kiến tích cực hơn. Bác nói:
– Chú mầy biết không, ở đâu cũng vậy, có những người có khả năng viết văn giỏi và họ viết hồi ký giùm cho người khác. Nào phải ai cũng viết được cho hay, cho hấp dẫn đâu! Ngay đến các cựu tổng thống hay những người nổi tiếng, dù cuộc đời và sự nghiệp của họ lẫy lừng đến đâu mà nếu viết không hay thì cũng phải nhờ người sửa câu sửa chữ cho. Điều đó đâu có gì trái. Anh nghĩ chú mầy cứ làm đi! Giúp cho người ta và ít ra mình cũng sử dụng được cái văn tài của mình. Viết bài đăng internet khơi khơi làm gì có tiền!
Ba lặng thinh suy nghĩ. Xem ra ba có vẻ xiêu lòng. Bác tôi còn nói thêm:
– Cha mẹ mình đã dạy, làm việc gì bằng công sức của mình, kiếm tiền nuôi thân, đều không xấu. Chú giúp ông ấy viết hồi ký cũng như chú đi dạy Toán, khác gì đâu! Hoặc cũng giống như anh, đầu tiên qua đây đi cắt cỏ, đi rửa xe… anh không thấy gì là buồn cả. Mà công việc này lại nhàn nữa, chỉ mỏi cái bàn tay gõ, còn hơn đi làm lao động nặng nhọc. Chú nên nhận lời.
– Vâng.
– Anh hẹn cho ông ấy nói chuyện với chú để bàn về nội dung cuốn hồi ký nhé! Kệ, tội nghiệp người ta, có cuốn hồi ký để lại cho con cháu đọc để hiểu cái thời ngày xưa ra sao… cũng là xứng đáng lắm!
*
Khuya nay đón tôi về, ba kể:
– Ông bạn của bác con hẹn ba ra tiệm phở “Âu”, ông bàn chuyện viết và hứa trả tiền cho ba rất khá, đủ để cha con mình thuê nhà nửa năm. Ông còn nói hễ sách càng dày thì tiền càng tăng.
– A! Thật vậy hả ba? Rồi sao nữa? Ba đã biết được ý chính của cuốn sách ba sắp viết chưa?
– Ông ấy kể hết cho ba nghe rồi.
– Vậy ba phải viết đúng một trăm phần trăm cuộc đời của ổng há ba?
– Không.
– Ủa, sao vậy ba? Hồi ký mà!
– Vì là hồi ký… nên ông ấy muốn ba thêu dệt càng nhiều chuyện hấp dẫn càng tốt.
– Cái gì? Sao kỳ vậy ba?
– Ông ấy kể cho ba nghe một số chi tiết có thật xảy ra trong cuộc đời của ông ấy, nói ba dựa vào đó mà viết ra cho lâm ly bi thiết, nói rằng ông ấy gặp hoạn nạn ghê gớm ra sao, rồi ông ấy chống chọi một cách anh dũng thế nào, rồi ông ấy trở nên một người hùng trong mắt mọi người… Chưa hết, chuyện tình cảm của ông cũng phải như tiểu thuyết, như phim, phải thơ mộng, phải đẫm lệ, sao cho người đọc thấy được những cuộc tình đi qua đời ông rất đẹp, rất lãng mạn. Nói chung, như là… Doctor Zhivago vậy.
– Thì như vậy… là một cuốn tiểu thuyết!
– Không, không phải tiểu thuyết. Là một quyển hồi ký, đời thật của một người.
– Như vậy là không thật! Hồi ký thì phải hoàn toàn là sự thật. Thêu dệt là có tội. Tội đánh lừa người đọc. Ủa, mà ba ơi, sao ông ấy lại phải tốn nhiều tiền để làm như vậy?
Ba thở dài, tiếng thở dài này tôi chưa từng nghe:
– Ông ấy nói ông ấy kiếm tiền đã quá mệt mỏi. Bây giờ ông ấy đã có tiền. Ông ấy không cần tiền nữa. Ông ấy cần danh.
*
Ba tôi gặp ông bạn của bác tôi ở tiệm phở “Âu”. Lại tiệm phở “Âu”! Nhưng lần này là do ba hẹn. Ba bảo tôi có rảnh thì ra chơi luôn. Nhân buổi sáng là lúc tôi không có giờ làm việc ở McDonald’s nên tôi cũng ra đó. “Ông khách” của ba tôi đến. Ông vui vẻ kéo ghế, định gọi thức ăn thì ba ngăn lại, nói rằng ba đã gọi rồi. Người bồi bàn đem ra một tô phở. Ông khách ngạc nhiên thì ba nói ngay:
– Xin mời anh. Anh cứ tự nhiên dùng. Hai cha con tôi đã ăn sáng rồi ạ!
– Nhưng tôi sẽ trả tiền hết mà!
– Dạ không sao đâu. Xin anh cứ dùng đi!
– Thôi được. Nhưng tôi rất nôn nóng muốn biết chú cần thêm chi tiết gì nữa trước khi khởi sự viết giùm tôi cuốn hồi ký.
– Dạ thưa anh, tôi sẽ không viết đâu ạ!
Đôi mắt ông khách trợn tròn, ông lắp bắp:
– Chú… chú nói sao? Tại sao?
Ba đáp:
– Thưa anh, tôi thấy tôi không hợp với việc này ạ! Xin anh tìm người khác.
– Nhưng chú phải nói cho tôi biết lý do tại sao… Chú chê tiền à?
Ba lắc đầu, thản nhiên nói trong khi đứng dậy:
– Xin lỗi anh, tôi không giải thích được thêm gì nữa đâu!
– Tôi không hiểu…
– Vâng, anh sẽ không hiểu ạ!
– Tôi… tôi…
– Xin anh tự nhiên dùng. Tô này tôi đã trả tiền. Họ sẽ trừ vào tiền lương của tôi. Xin phép anh, tôi đi làm việc.
Ba quay đi và nhận cái “tạp-dề” từ tay người quản lý tiệm phở, đeo vào. Ba nhìn tôi, nhoẻn miệng cười:
– Thế con có muốn ăn phở không? Ba sẽ bưng cho con một tô…
Tôi cười theo:
– Dạ con muốn. Ba sẽ trừ vào tiền lương của ba chứ?
– Đương nhiên.
Thật tình là tôi muốn reo lên như người hâm mộ reo mừng chiến thắng của đội banh mà mình yêu mến. Tôi nén xúc động, ngồi đường hoàng nơi bàn như một thực khách chờ thức ăn. Và ba tôi kìa! Ba đang mang ra cho tôi một tô phở. Bước chân ba hơi khập khiểng một chút. Nhưng đó là những bước chân vững chắc nhất có thể dìu dắt tôi trong suốt cuộc đời này. Bước chân của một người đã gửi lại trong đất một phần thân thể. Người đó không muốn phản bội lại những gì mình đã hoài mộ. Tôi hiểu ra tại sao ba đã không viết trong một thời gian khá lâu, gần ba mươi năm. Bởi vì ba có một cây bút không thể bẻ cong. Ngày xưa cũng vậy, bây giờ cũng vậy. Người thầy giáo của tôi! Người lính của tôi! Ba yêu quý của tôi!
Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh
(nguồn: vietbao online)
***
Lưng Đồi Ridgewood
Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh
– “Lão ông” này!
– Gì thế “lão bà”?
– Ông xem, hoa dại đẹp không?
– Đẹp lắm!
Những câu đối đáp đơn sơ và ấm áp là thế! Hai người cười vui vẻ. Bà đem một bó hoa dại từ ngoài vườn vào. Bà thích cắm ở góc nhà một bình hoa dại, thú vui khó bỏ từ thuở niên thiếu. Trong khi đó, ông tỉa những chậu hoa trong cái “nhà kính” do ông xây đắp bấy lâu. Hoa của ông thì cầu kỳ lắm, bà cũng rất thích, và cùng ông chăm bón.
– Tôi đi không lâu, có một tuần thôi, lão ông nhớ ăn uống ngủ nghê điều độ nhé!
– Yên tâm đi, tôi vẫn quen cái cảnh bà qua bên đó với các con, đâu phải lần đầu.
– Biết thế, nhưng không dặn dò ông thì tôi không thấy yên tâm.
Đồ đạc đã chất hết vào “cốp” xe. Ông đưa bà ra phi trường. Chiếc xe không còn mới lắm nhưng như con ngựa già đi đâu cũng tới. Và không chỉ riêng bà, ông vẫn thường đưa đón những người thân, những người bạn từ xa đến. Thỉnh thoảng ông bà cùng đi thăm con ở tiểu bang xa, họ cùng đi xe ra gửi ở phi trường. Cuộc sống vẫn êm đềm như thế.
Ông lái xe trở về nhà một mình. Con đường Ridgewood yên vắng, cây xanh rợp bóng. Ngôi nhà của ông bà nằm khuất sau những tàn cây. Ông lái xe xuống con dốc thoai thoải, vào đến sân. Tháng tư, tiết trời khá mát mẻ. Ngọn gió nhè nhẹ đưa đến cho ông sự sảng khoái. Ông tự nói với mình “Hãy đi bộ một chút!”. Ông đậu xe và bước thong thả ngược ra lại con đường. Ông đi bộ như mỗi ngày ông vẫn làm như thế. Nhưng không có bà cùng đi, ông cảm thấy thiếu vắng. Dù sao, như lời bà đã dặn “Không có tôi, ông cũng không được bỏ đi bộ, ăn ngủ phải điều hòa, và đừng quên một việc là lúc nào cũng phải “sạc” pin cell phone để tôi gọi về đấy!” Bà dĩ nhiên là không ghen bóng ghen gió, ở cái tuổi thất thập rồi mà! Ông nghĩ thế và bật cười, cảm thấy vui vẻ một mình.
Ông vẫn thong dong, đi hơn một tiếng đồng hồ, lướt qua trường Emory, tới CDC rồi ngược trở về. Ông không còn cảm giác cô độc nữa. Bởi vì đi ngang Emory ông được mỉm cười nhớ đến thằng con trai đầu lòng đã tốt nghiệp từ đây, còn CDC làm ông nghĩ đến đứa con gái đang làm chương trình nghiên cứu bệnh truyền nhiễm với ông thầy – và hai thầy trò cùng các cộng sự đang làm việc ở Kenya. Ông bà thật không uổng công vất vả nuôi dưỡng các con.
Về đến trước nhà, mở thùng thư lấy một xấp thư, rồi tra chìa khóa vào cửa, ông lẩm bẩm:
– Còn phải đến trung tâm nữa!
Ông không đi tắm vội, ông muốn tận dụng thời gian “chờ ráo mồ hôi” để mở thư ra xem. A! Hôm nay có thư của mấy người bạn già. Ông mỉm cười. Chà! Cái anh chàng Tuân này, sắp cưới vợ cho con trai, vui nhỉ! Cái “lão” Thái này, sắp đi thăm con bên Úc, cũng vui! Còn anh bạn Long này, sao đây??? Sao không phải nét chữ của anh? Thì ra là chữ của anh ấy đó chứ! Nhưng nét chữ nguệch ngoạc, run rẩy. Nhớ rồi! Anh ấy đã tập luyện một thời gian dài sau khi bị “stroke”, bây giờ cầm bút viết được thế này là quá hay! Ông chợt nghe lòng chùng xuống. Trong những người bạn còn liên lạc với nhau thời gian này, có lẽ ông là người ít đau ốm nhất. Bà vẫn thường nói lén ông với mấy bà bạn: “Lão ông nhà tôi chẳng bao giờ đến gặp bác sĩ của mình”.
Thật ra, ông có đến nhưng rất ít, thường là những kỳ khám tổng quát, bác sĩ gia đình nhắc năm lần bảy lượt ông mới đến. Ông không đau ốm vặt. Ông cũng là bác sĩ mà! Bác sĩ thì biết lắng nghe cơ thể của mình lắm! Nhiều khi bà bảo ông gàn. Ông cứ cười xòa: “Bà ạ, bói ra ma quét nhà ra rác”, hoặc ông còn nói vui một câu mà ông không nhớ mình học được từ ai: “Bà ạ, tôi chỉ rảnh để chết, không rảnh để bệnh”. Và thế là ông cứ làm việc, dù đã về hưu mấy năm nay. Ông vẫn làm việc bán thời gian, làm cố vấn cho một trung tâm y tế ở quận hạt này.
Ông đã để tâm trí của mình đi miên man quá lâu. Đã ráo mồ hôi rồi! Ông đi vào nhà tắm. Tắm xong, ông sửa soạn để đi đến trung tâm làm việc buổi chiều nay. Lúc nào ông cũng cẩn thận tuy không chải chuốt. Ông luôn muốn tạo cảm nghĩ đẹp nơi các bệnh nhân, nhất là các bệnh nhân nhỏ tuổi. Các bạn nhỏ thường nhìn vị bác sĩ khám bệnh cho mình bằng một sự thán phục, có hơi thần thánh hóa chút xíu. Ai cũng vậy thôi! Ông nhớ lúc ông còn nhỏ, ông cứ nghĩ đến những người thầy thuốc như là những ông bụt, bà tiên, những người không bao giờ bệnh hoạn. Có như vậy họ mới chữa bệnh cho người khác được chứ! Thật là đơn giản. Quãng đời phục vụ y khoa của ông khi còn ở quê nhà thì không thế. Ông khó có thời gian để lo lắng đến vẻ bề ngoài. Có khi ông rất lem luốc, râu ria rậm rạp. Người ông nhiều lúc đầy bụi đất, có khi lấm lem cả máu người. Ông đã từng là một bác sĩ quân y.
Ông vuốt nhẹ bộ râu đã được tỉa thật khéo. Bộ râu rất được bọn trẻ nít khen ngợi. Có một bạn nhỏ gọi ông là “bác sĩ Ai-bô-lít”. Ông không biết nhân vật này. Có lẽ cháu bé xem đâu đó một bộ truyện tranh. Cháu bảo hàm râu của ông và tính nhân từ của ông rất giống với vị bác sĩ trong truyện nhi đồng này. Ông gật gù, cười với “ông bác sĩ Ai-bô-lít” trong gương. Có lẽ hãy gọi điện thoại cho thằng con của ông một chút để nhắc nó nhớ ra đón mẹ, không thôi lu bu công việc rồi nó lại ra trễ thì mẹ phải chờ tội nghiệp. “Lão bà ạ, bây giờ bà đã có lời rồi đấy nhé! Đi qua Cali được lợi những ba tiếng đồng hồ. Tha hồ mà chơi với con và cháu”. Ông nhìn qua nhìn lại không thấy chiếc cell phone đâu. À thì ra mình để quên trong phòng tắm chưa mang ra. Bà nhà này rất chu đáo, luôn dặn ông lúc nào vào phòng tắm cũng nhớ đem theo cell phone, nhỡ bên ngoài có chuyện gì thì mình vẫn có thể có điện thoại mà dùng. Ông mỉm cười. Ông lại nhìn vào chiếc gương lớn trong phòng. Đã thất thập rồi, ông và bà! Trong mắt nhau, dường như thời gian không có tuổi. Ông ước gì có thể làm một đám cưới đơn sơ với bà một lần nữa, người bạn đời thương yêu trên mọi bước đường trong đời ông.
*
– Mẹ, ba đã gọi lại cho mẹ chưa?
– Chưa con ạ! Chắc ba bận việc tại trung tâm. Thường những ngày cuối tuần ba có những buổi họp thông tin chia sẻ về các bệnh của người già. Yên tâm đi, mẹ sẽ gọi nữa.
– Nhưng bây giờ là đêm rồi!…
– Cứ để mẹ gọi nữa con ạ! Các con cứ đi ngủ đi!
Bà lại gọi điện thoại cho ông, nhưng không ai trả lời. Điện thoại nhà cũng vậy, cell phone cũng vậy.
Đến khuya, bà đã thật sự lo lắng. Bà choàng dậy, gọi số điện thoại của bà bạn thân.
– Bà Hai, bên Cali bây giờ là 12 giờ khuya, bên đó đã gần sáng, tôi xin lỗi đã đánh thức bà dậy, nhưng không có cách nào hơn. Ông nhà tôi không trả lời điện thoại của tôi. Bà có thể vui lòng sáng sớm chạy đến nhà tôi giùm không? Tôi lo lắm!
Giọng bà bạn còn ngái ngủ:
– Được. Xin bà đừng quá hoảng hốt. Tôi sẽ chạy tới, đồng thời sẽ gọi điện thoại cho ông ấy. Này bà, có khi nào bên Cali… hệ thống điện thoại bị gì không?
– Không bị gì cả, cũng đâu có động đất hay sóng thần gì! Mọi việc đều bình thường, chỉ có điện thoại nhà tôi là rắc rối…
– Được rồi, xin bà cứ đi ngủ đi. Tôi sẽ đến nhà bà. Có khi nào, lâu lâu bà vắng nhà, ông ấy đi đâu với bạn bè không?
– Không đâu! Bạn bè ai cũng có tuổi cả, nào phải thanh niên nữa đâu mà đi chơi. Có đi đâu thì cũng cầm theo cell phone, mà có quên đem theo thì cũng mượn được điện thoại của bạn mà nhắn cho tôi. Ông nhà tôi cẩn thận lắm bà ạ!
Giọng bà bạn trêu nhẹ:
– Biết đâu đấy!.. Thôi bà cứ nghỉ ngơi. Có tin gì tôi sẽ gọi lại.
– Cám ơn bà nhiều lắm!
Bà trằn trọc suốt đêm. Chưa có lần nào bà đi chơi mà gọi về không gặp ông. Giọng trêu đùa của bà Hai cứ theo đuổi trong đầu. Bà bạn thân này, tính tình khôi hài lâu nay bà biết rồi! Chắc bà ấy không muốn mình lo lắng quá đáng. “Thỉnh thoảng cũng nên cho nhau một chút tự do chứ!”, bà Hai vẫn hay nói như vậy.
Bà nhắm mắt lại. Bà đếm tiếng đồng hồ tích tắc, tích tắc… Bà nghe như có cả tiếng nước giọt bên phòng tắm. Ban tối bà bảo con trai và con dâu yên tâm đi ngủ, để bà gọi chừng cho ông, nhưng chính bà đang cảm thấy bất an ghê gớm. Bà lại cầm điện thoại lên, gọi về ông. Vẫn không nghe trả lời. “Xin nhắn lại… xin nhắn lại…” Bà nhắn đã một chục lần. Ông ơi! ông đi đâu? Tự nhiên bà nghe lòng dỗi hờn, giống như cảm giác của một cô con gái mới hẹn hò. Nước mắt bà trào ra. Bà nén tiếng thút thít. Bà tự cười nhạo chính mình. Xấu hổ ghê chưa! Thất thập rồi, cả ông và bà!…
Rồi mơ mơ màng màng, bà thấy ông đứng trước mặt. Ông cầm một bông hồng dại mới hái trong một khu vườn xa lạ. Loại hoa này bà rất thích, bà vẫn thường mê mải tìm hái trong những ngày còn là cô thiếu nữ. Ông ngỏ lời cầu hôn với bà một lần nữa. Bà e ấp gật đầu.
Đám cưới thật đơn sơ…
*
Chuông điện thoại reng làm bà giật mình mở mắt. Chiếc điện thoại bà vẫn nắm chặt trong bàn tay. Giọng bà bạn:
– Tôi bà Hai đây!
– Sao bà Hai?
– Sáu giờ sáng bên này rồi, tôi đã đến trước nhà bà rồi đây!
– Sao? Sao? Bà đã gọi ông nhà tôi chưa? Ông có ở nhà không?
– Tôi có thấy xe ông đậu trước nhà…
– Ồ! Sao ông ấy không cho xe vào ga-ra nhỉ?
– Tôi không biết. Tôi đã bấm chuông, đã gõ cửa, nhưng không nghe trả lời. Tôi đã gọi cell phone của ông ấy và cả điện thoại nhà bà nữa…
– Cũng không có ai trả lời hả bà?
– Không.
– Chẳng lẽ ông ấy đi đâu???
– Vậy… bà muốn tôi làm gì đây?
– Bà… bà hãy bấm chuông nữa, gõ cửa nữa… giùm tôi.
– Tôi gõ đã muốn bung cả cửa ra rồi!
– Bà… bà hãy bấm chuông nữa giùm tôi.
– Tôi bấm cũng đã sưng ngón tay lên rồi! Chỉ còn một cách nữa, bà hãy gọi một vòng những nơi mà ông ấy hay đến, trước khi mình làm… cái cách cuối cùng.
– Vâng, tôi gọi. Tôi gọi.
Bà gọi điện thoại những người thân nhất của ông, xin lỗi họ vì đã làm phiền họ sáng sớm. Không ai biết ông ở đâu. Bà gọi lại bà Hai. Giọng của bà run rẩy thấy rõ.
– Ôi!.. Bà Hai ơi!…
– Tôi đây! Bà có muốn…
– Phải, bà làm ơn… gọi 911.
– Chỉ còn cách đó.
– Vâng, nine… one… one!
Con trai và con dâu đã đứng ở cửa phòng. Mấy mẹ con nhìn nhau. Anh con trai nhẹ nhàng lấy chiếc cell phone từ tay mẹ, ôm chặt vai bà. Cô con dâu ngồi xuống bên bà, nắm lấy bàn tay bà lạnh ngắt. Mọi người chờ đợi. Thời gian trôi lê thê nhưng chỉ có năm phút, rồi tiếng chuông lại reng.
– Cô Hai, dạ vâng, cháu đây! Cô Hai hãy nói đi!
– Cháu nghe này, cảnh sát đã tới, xe cứu hỏa, xe cứu thương cũng đã tới.
– Dạ…
– Họ đang phá cửa. Họ bảo cô không nên vào, để họ xem sao đã. Cô phải đứng ở ngoài. Cháu cứ giữ máy, cô đang đến gần để hỏi thăm họ đây!
– Vâng…
– Cháu ơi! cảnh sát bảo cô hãy báo tin cho người nhà…
Giọng người con run run:
– Cô ơi, xin cô nói cho cháu biết…
– Cảnh sát tìm thấy… ba cháu chết trong phòng tắm, áo quần chỉnh tề, bên cạnh chiếc cell phone cháu ạ!
– Không thể nào!…
Người mẹ như cũng đã đoán được chuyện gì xảy ra, và nó ghê gớm đối với bà đến đâu. Không đợi con trai nói lại, bà lẩm bẩm như mê:
– Không thể nào! Không thể nào! Ông ấy rất khoẻ. Ông ấy đưa tôi ra phi trường. Ông ấy về nhà và chuẩn bị để đi làm đấy mà!
Đôi mắt bà mở to như nhìn vào một khoảng không sâu hun hút. Bông hoa hồng dại trong mơ bay bổng lên cao.
*
Bà đang đứng nơi lưng đồi Ridgewood. Bà đã yêu cầu người bạn quý là bà Hai dừng xe thả bà xuống và để cho bà được một mình. Bà Hai lo lắng, càu nhàu, rồi phải chiều bà, vì quá biết tính bà. Bà vốn vẫn tỏ ra là một người cương nghị.
– Nhớ gọi cho tôi đấy! – Bà Hai ái ngại.
– Dĩ nhiên. Cám ơn bà bạn quý. Đừng lo cho tôi mà!
Con đường Ridgewood yên vắng, cây xanh rợp bóng. Ngôi nhà của ông bà nằm khuất sau những tàn cây. Tháng tư, tiết trời khá mát mẻ. Ngọn gió nhè nhẹ đưa đến. Bà như người tìm về một khoảng đời đã xa thật xa. Con đường này vốn đã là nơi ông bà đi bộ mỗi buổi sáng. Cây nhiều lắm, bởi xưa đã là một khu rừng. Mà thật, hầu như gần hết vùng này đã từng là rừng. Chỉ trừ những con đường lớn và nhộn nhịp như Clifton hay Briarcliff, những con đường nhỏ đều mang vẻ hoang vu mặc dù vẫn có nhà cửa hai bên đường. Cái vẻ đẹp nguyên sơ làm tôn thêm sự thanh khiết của quang cảnh. Ông bà đã yêu mến nơi này, gắn bó với nó như tình thân. Ông bà từ chối nhiều lần về đề nghị của con trai muốn ông bà về California ở cùng với con cháu cho vui. Ông vẫn thường nói với bà rằng có lẽ họ còn mang nặng tâm lý của người Việt Nam, coi cái nhà như vật bất ly thân. Đó là tâm lý “an cư lạc nghiệp”, không muốn thay đổi hoặc rời xa một chỗ ở đã quá quen thuộc rồi.
Chỉ còn vài bước nữa thôi, sẽ đến cái dốc dẫn vào nhà. Ngôi nhà nấp sau những tàn cây tỏa bóng mát rượi. Lão ông của tôi! Không thể nào! Đã một năm rồi sao? Bây giờ tôi đã trở về ngôi nhà của chúng ta. Ôi! Tôi chưa bao giờ nếm trải cái cảm giác trở về nhà một mình. Vậy mà “lão ông” của tôi đã từng! Ngay cả thời gian sau cái biến cố lớn nhất đời xảy ra, tôi đã trở về cùng với con trai và con dâu. Con gái chúng ta sau đó cũng đã về dự đám tang của cha rồi lại đi châu Phi. Mọi người không ai muốn để tôi ở một mình trong ngôi nhà này. Họ sợ tôi không chịu nổi. Tôi cũng không chắc rằng tôi chịu nổi. Vâng, lúc nào cũng có người kề bên tôi. Ai cũng sợ tôi quá buồn. Ai cũng sợ tôi phát bệnh. Thậm chí không ai cho tôi bước vào phòng tắm nơi ông đã thở hơi thở cuối cùng, không cho tôi ngủ trong căn phòng quen thuộc của chúng ta. Ở nhà quàn, cũng có đông đảo người đến phúng viếng, an ủi. Ngày làm lễ phủ cờ cho ông, rồi ngày đưa ông ra nghĩa trang, cũng có vô số bạn bè thân quyến cùng tiễn đưa. Lúc nào cũng có người ở bên cạnh tôi để an ủi. Rồi những ngày sau nữa, khi tôi làm nốt những công việc của Tháng Tư mà chúng ta đang làm dang dở trong cộng đồng, tôi cũng vẫn có người khích lệ, ủng hộ. Sau đó, khi con trai và con dâu về lại Cali, tôi đã đi với các con. Họ cứ nằng nặc muốn tôi đi cùng, không cho tôi ở lại nhà một mình. Căn nhà của con mình bên Cali cũng rất quen thuộc vì chúng ta vẫn thường qua đó trong những ngày nghỉ. Vâng, tôi đã qua đó. Phần vì muốn chăm sóc con dâu trong những ngày sinh nở và đứa cháu nội chuẩn bị chào đời, phần cũng muốn mình phải bận rộn trong những công việc không tên để đừng lâm vào sự bi thương, nên tôi đã qua đó. Tôi đã không cho phép mình buồn khổ. Tôi nghĩ rằng tôi không được buồn khổ!
Và rồi con dâu đã sinh cháu trai khoẻ mạnh, mẹ tròn con vuông. Tôi có mặt bên con và cháu như một điều hiển nhiên rất đáng làm của một người mẹ, một người bà. Tôi được cuốn theo cái vòng tròn hạnh phúc của một gia đình mà tôi đã có không ít những đóng góp xây dựng. Tôi tự cho mình sự bận rộn để lo lắng mọi việc giúp con. Đứa cháu kháu khỉnh khiến tôi cảm thấy an ủi. Tôi cũng có những ngày lái xe đi làm công việc trong cộng đồng. Chỉ là những việc thiện nguyện mà tôi đã từng làm như khi ở Atlanta. Tôi hình như đã chữa lành vết thương cho chính mình.
Nhưng rồi, “lão ông” ơi! Có những lúc tôi tự hỏi tôi đã tự chữa lành thật chưa? Tôi có phải đang trốn tránh một cái gì? Con và dâu muốn tôi ở hẳn nơi nhà họ. Nhưng tôi đã ngồi xuống thẳng thắn nói chuyện với họ. Tôi muốn về Atlanta. Tôi muốn về nhà. Một mình.
Lũ trẻ đã quen cái tính cương quyết của tôi, nhất là thằng con trai của chúng mình, đành phải chiều ý tôi. Tôi vốn đã cương quyết từ khi ẵm con trên tay, lặn lội đi nuôi chồng trong trại tù cải tạo. Nếu không cương quyết, tôi sẽ dễ dàng rơi vào những cái bẫy rình rập một người phụ nữ yếu ớt. Nếu không cương quyết, tôi sẽ không hiểu được và đồng cảm được với những bài thơ, bài văn ông viết ở trong tù. Nếu không cương quyết, tôi sẽ không thể khuyến khích và yểm trợ cho ông để tiếp tục học ra bác sĩ ở nơi đây…
Bà đã đến trước sân. Chiếc xe của ông đã được cho vào ga-ra từ ngày ấy. Bà tự nhủ: “Sẽ giữ lại chiếc xe ấy mà đi, còn chiếc xe của mình thì sẽ bán bớt”. Bà tra chìa khóa vào cửa.
Chợt bà khựng lại một chút. Có khi nào bà sẽ gặp ông nấp sau cánh cửa chờ làm một điều gì đó thật ngạc nhiên cho bà? Bà lắc đầu… Bà đã mở cửa rồi! Căn nhà im vắng. Lâu nay có mấy bà bạn thỉnh thoảng ghé lại coi ngó giùm nên căn nhà sạch sẽ ngăn nắp như vẫn có người ở. Bà cởi áo khoác ngoài, ngồi xuống ghế. Bà muốn bật chiếc radio để nghe một đài tiếng Việt mà ông bà rất yêu thích và bật suốt ngày đêm những khi có ở nhà. Nhưng vẫn không. Bà muốn im lặng để tìm lại cái cảm giác thoải mái mỗi khi đi đâu về mệt, dựa lưng trên chiếc ghế êm ái này, biết rằng ông đang có mặt ở đâu đó trong nhà, mà bà không cần phải thấy ông. Nhưng rồi sau đó ông xuất hiện, tặng cho bà một tách trà ông mới pha. Và mỗi khi ông đi làm về thì bà lại là người pha trà cho ông. Giản dị như vậy thôi! Và rồi hai người lại đi vào cái nhà kính để trầm trồ và chăm chút những bông hoa đủ loại.
Bà lim dim mắt, ngả đầu trên lưng ghế, mường tượng ra tất cả những ngóc ngách của căn nhà. Bà chưa muốn đi xuống tầng basement vội, nhưng cũng nhớ như in, những chỗ mà ông hay lục đục dọn dẹp, sắp xếp. Bà cũng sẽ đi ra vườn chứ! Sẽ xem những cây ăn trái mùa này sắp sửa cho những trái ngon ngọt rồi đây! Và còn bụi hồng dại của bà nữa! Tháng tư là tháng mà những bông hồng dại sẽ rực lên một màu đỏ thắm.
Bà nhỏm dậy. Có một nơi mà bà không thể dừng được ý nghĩ phải vào đó. Bà phải vào đó ngay! Dù con trai đã dặn bà Hai kỹ lưỡng là phải đi cùng với bà, phải ở cùng với bà giùm nó, nhưng giờ đây, chỉ có một mình, bà bước vào đấy. Vâng, cái nơi mà ông đã thở hơi thở cuối cùng! Bà đi vào phòng ngủ, rồi mở cửa phòng tắm, bước vào. Bà như thấy ông đang vói tay lấy chiếc cell phone lúc đó đang ở trên chiếc kệ thấp. Nhưng không được. Ông không còn đủ sức để làm một cái gì. Ông đang từ từ lịm đi trên nền gạch… Ông đưa hai bàn tay ôm lấy ngực. Trái tim ông đang co thắt mạnh và đập những nhịp đập quái gở. Nét mặt ông rúm lại vì đau đớn. Nhưng rồi, trong một cố gắng cuối cùng, ông đã mỉm một nụ cười. Ông muốn mọi người khi trông thấy ông sẽ nghĩ rằng ông đã ra đi rất bình an.
Bà thấy mình tê điếng trong một cảm giác kỳ lạ. Bà thấy bà đang đứng vào chỗ của ông, đang té xuống nền gạch, đang vói lấy chiếc cell phone, đang ôm lấy ngực nơi có trái tim quái gở đang lịm dần, đang co rúm nét mặt, và đang cố nở một nụ cười. Ông đang vẫy gọi bà nơi lưng đồi ngoài kia. Tháng tư, mùa xuân vẫn còn ngự trị trên xứ của rừng. Những cây cỏ hoa lá cũng đẹp như trong một cánh rừng. Những con đường cũng mang tên của rừng. Con đường Ridgewood, cùng với những con đường khác cùng mang tên rừng đem bóng mát và hương thơm hoang dã vào đến tận trong nhà… Bà gục xuống, tâm trí lãng đãng…
Tiếng chuông điện thoại reng. Không phải chuông điện thoại bàn! Mà là chuông cell phone của bà! Bà luôn để cell phone trong túi áo. Tiếng chuông kéo bà ra khỏi cơn mơ màng. Bà giật mình, lấy vội điện thoại ra.
– A-lô!
– Hello, mẹ ơi, con đây! Con gái đây!
– Ôi, con gái, con ở đâu?
– Con đã về rồi! Con từ Kenya về.
– Thật sao?
– Thật mẹ ạ! Mà con xin báo tin vui cho mẹ, con đã xin về làm tại CDC, con không đi xa nữa, vì con muốn ở với mẹ.
– Mẹ mừng quá! Con đi hoài, không bao giờ gần mẹ cả. Mẹ nhớ con lắm!
– Con cũng nhớ mẹ lắm! Con gọi về nhà anh, anh bảo mẹ đã về nhà. Mẹ đang ở đâu?
– Mẹ đang ở nhà mình.
– Với ai?
– Một mình.
– Ôi! Không được, mẹ không được ở một mình. Con sẽ về ngay. Con đang ở CDC, con sẽ chạy về, nhanh lắm!
– Mẹ đợi con.
Bà chạy ra nhà ngoài. Một gương mặt quen thuộc nhìn bà. Một cái nhìn trìu mến! Bà dừng ngay lại. Lão ông! Lão ông của tôi! Xin lỗi ông, tôi quên là ông đang ở đây. Ông vẫn trìu mến an ủi và chăm sóc tôi đấy mà! Bà thổn thức, thắp cho ông một nén nhang. Ông mỉm cười. Bà mỉm cười với ông trong dòng lệ.
… Bà bước nhanh ra ngõ, đi ngược trở lại con dốc. Có tiếng cười trong trẻo nhẹ nhàng văng vẳng. Con gái đã về đến lưng đồi!
Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh
(nguồn: vietbao online)
***
Nhịn Đói Trên Xứ Mỹ
Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh
Hai người bạn gặp nhau lần đầu tại phi trường Hongkong. Xuân đi từ Sài Gòn. Thu đến từ Hà Nội. Việc hẹn nhau và cách thức nhận diện nhau cũng thật dễ dàng vì họ đã làm quen và dặn dò nhau nhiều lần qua điện thoại. Xuân lớn hơn Thu một vài tuổi. Hai người cùng ngạc nhiên khi thấy người kia có nét hao hao giống mình. Những e ngại hầu như đã biến đâu gần hết. Từ đó cho đến khi vượt đoạn đường bay mười mấy giờ đồng hồ đến San Francisco, họ đã trở nên đôi bạn. Thêm một đêm bay nữa, họ đến Atlanta, Georgia.
Hai người không có thời gian nghỉ. Sáng hôm mới đến, lo xong chỗ ở là họ phải đến CDC (Centers for Disease Control and Prevention) trình diện ngay. Rồi thì bắt tay vào việc: học hành và làm việc trong phòng thí nghiệm. Tuy vậy, không phải mới đến trung tâm là đã thành “cư dân” của trung tâm ngay đâu! Mỗi người được phát một thẻ “visitor” (khách) để tạm thời được ra vào trung tâm. Họ được hẹn ngày hôm sau đi làm “fingerprint” (lấy dấu tay) ở một địa điểm khác, rồi sau đó sẽ được chụp ảnh để làm một cái badge (phù hiệu) để đeo trên áo, từ đó mới được coi như “nhân viên tạm” trong thời gian đi tu nghiệp, và thế có nghĩa là được quyền mang một thẻ “khóa magnetic” (khóa từ tính) để ra vào các cửa, đến phòng thí nghiệm; và rồi cũng như những nhân viên thực thụ của trung tâm, họ được ăn uống ở cafeteria, được tham dự các buổi báo cáo khoa học…
Đối với Xuân, tuy chưa sống ở Hoa Kỳ nhưng Xuân đã tìm hiểu nhiều về xứ sở này qua người chị ruột đã sống ở California từ hơn hai mươi năm nay. Còn với Thu, tất cả đều mới lạ và đáng ngạc nhiên. Tiếng Anh của Thu không mấy lưu loát. Thu bảo Thu phải nhờ Xuân giúp nhiều. Không sao đâu! Xuân đã quen làm việc với các chuyên gia ngoại quốc. Xuân đã từng làm thông dịch viên cho các chương trình y tế. Xuân sẵn sàng giúp cô bạn mới từ nay sẽ sống với mình. Và như thế, mặc nhiên, họ đã coi nhau như hai người bạn, hai chị em.
Ngày đi làm fingerprint, hai chị em được đưa đến một tòa nhà nằm trên một ngọn đồi. Nhiều người đã có mặt ở đó. Chờ đợi rồi cũng đến lượt mình. Xuân và Thu đã làm xong. Nhưng người tài xế lo việc đưa đón hai người bị một tai nạn nhỏ, không đến đón được. Thế nên Xuân và Thu phải đi lang thang trong sân, hết nhìn người đến kẻ đi rồi lại ngắm hoa cỏ. Ồ phải chi mình rành đường một chút thì chắc sẽ đi đón xe bus mà về. Hai chị em lại an ủi nhau “Không sao đâu!”, rồi lại đi dạo chơi.
Tòa nhà nằm trong một khuôn viên thơ mộng. Một nơi có thật nhiều hoa. Từ lúc đặt chân đến Hoa Kỳ tới nay, qua ngày thứ nhì, hai bạn mới có dịp ngắm một quang cảnh mới mẻ. Không khí trong lành và những bông hoa thắm tươi gợi Xuân nhớ nhiều đến Đà Lạt. Trên đỉnh đồi này nhìn xuống, thấy những con đường xinh xắn uốn lượn. Atlanta thật đẹp!!! Nhưng đó chỉ mới là vùng đồi núi vắng vẻ mà thôi, hai bạn vẫn chưa biết phố xá là như thế nào, chỉ nhớ lúc ở phi trường về có đi ngang qua khu downtown với những ngôi nhà cao trang trọng còn im ngủ trong sương sớm…
Đến một lúc cảm thấy đói, không còn muốn đi dạo nữa, hai bạn bắt đầu nghĩ tới việc tìm nơi mua thức ăn. Nhưng thật lạ, nhìn quanh không có một tiệm ăn nào, cũng không có một cái máy bán bánh kẹo tự động nào. Hai bạn bảo nhau:
– Giá mà có được một tiếng rao hàng nhỉ!
– Đúng rồi! Phải chi có một gánh hàng rong…
Nói như thế rồi cùng nhìn nhau cười thú vị.
Và rồi đến một lúc không thể cười được nữa, hai bạn cùng ngồi xuống ghế. Xuân nhìn Thu, thấy nét mặt bạn không còn vẻ hồng hào như sáng nay. Và chợt Xuân nghe tay chân mình bủn rủn. Ôi, đói quá! Mỗi đứa một tô sữa với cereal buổi sáng sớm, giờ đây nghe bụng trống rỗng. Mình lại vô ý không mang theo chút bánh kẹo gì để dằn bụng, cứ tưởng đi một chút rồi về ăn trưa. Ở đây là cơ sở thuộc cảnh sát, mình đâu có thể vào bên trong tòa nhà. Xung quanh cũng không có một ngôi nhà nào khác nữa. Không chợ búa, không tiệm tùng. Hai bạn thất vọng, cùng cầu mong có ai thay cho người tài xế để đến đón họ về. Nhưng hoàn toàn im lặng. Không có chiếc xe nào mang dấu hiệu của CDC xuất hiện như họ mong.
Xuân đề nghị:
– Thôi mình nói chuyện vậy. Đi không nổi vì sẽ hao năng lượng. Nhưng ngồi mong ngóng thì mệt mỏi lắm!
Thu cười nhẹ:
– Phải chị ạ! Nói chuyện cho quên đói.
– Hồi còn bé, mỗi khi đói mà chưa được ăn… thì chị hát.
– Ô, vậy à? Em thì ít khi chịu nhịn đói. Nhưng em nghe bố em kể về nạn đói năm 1945.
– Chị cũng nghe ba má mình kể lại. Đó là trận đói khủng khiếp nhất của nước mình. Lúc ấy chị và em đều chưa sinh ra.
Thu đưa tay vuốt nhẹ một bông hoa, giọng lâng lâng:
– Nghĩ cũng lạ chị nhỉ! Hai chị em mình có duyên với nhau thật, học khác ngành mà rồi được đi tu nghiệp cùng một nơi. Ở hai miền xa lắc mà bỗng thấy gần như hai chị em một nhà.
– Vâng, thì bây giờ mình đã ở cùng một phòng, ăn cùng một mâm nữa. Thu hãy nói cho chị biết vì sao em được chọn qua đây học.
– Em ấy à? Em được cho đi tu nghiệp ở đây là vì bố em làm chức lớn trong ngành, việc đề nghị cho em đi rất dễ dàng. Còn chị?
– Chị ư? …Chị không có thân thế gì cả. Chị được cho đi là vì… chị qua được những vòng tuyển chọn, có chấm điểm, có bằng chứng hẳn hòi.
– Vậy là chị may đấy! Có nhiều người làm giấy tờ xong vẫn hụt đi.
– …Thì chị đã từng….
Xuân ngưng lại, không muốn nói tiếp. Vì Xuân nhận thấy nét mặt của Thu thật dễ mến. Thu chắc cũng đã biết nhiều những mẩu chuyện như vậy, mình kể thêm một chuyện nữa mà làm gì! Kinh nghiệm về những lần bị dìm hồ sơ, bị cướp học bổng đi tu nghiệp, đi học, vẫn còn rõ ràng với Xuân lắm. Đơn giản chỉ vì Xuân là người sống trong miền nam, không có thân thế. Xuân tự hỏi không biết rồi với cái bề ngoài dễ mến của Thu và tính nhẫn nhịn của Xuân, hai người bạn này có thể sống hòa đồng được với nhau trong một thời gian khá dài hay không? Hai hoàn cảnh thật khác biệt, cả về nguồn gốc gia đình lẫn bối cảnh xã hội.
Xuân chợt thở dài. Xuân cũng không ngờ mình đang ngồi ở đây, và rồi sẽ được học hành, làm việc ở trên xứ Mỹ trong một thời gian ngắn. Xứ Mỹ, quê hương thứ hai của gia đình người chị ruột, những người đã đến bến bờ này bằng mồ hôi và nước mắt, trên con thuyền tả tơi dập vùi trong sóng gió. Hơn hai mươi năm sau, em của chị đi sang xứ Mỹ bằng máy bay, tất cả đã thật khác. Chỉ có một điều không khác: đó là hoàn cảnh của đất nước vẫn không thay đổi bao nhiêu.
Không biết lặng yên bao lâu, rồi cả Xuân và Thu cùng ôm bụng. Cái đói lại đến! Xuân chợt nhớ thật rõ một bài văn được học hồi trung học, bài “Đói” của Thạch Lam. Thuở nhỏ Xuân không mường tượng ra cái đói là ghê gớm thế nào mà ông Thạch Lam mô tả hay đến thế. Một bài văn ngắn đã đi vào chương trình giáo khoa. Có đoạn Xuân đọc gần như thuộc nằm lòng: “Sinh rùng mình khi nghĩ đến trước cái mãnh liệt của sự đói, chàng cảm thấy sự cần dùng của thân thể trấn áp đuợc hết cả những lệ luật của tinh thần… Mùi xào nấu đồ ăn ở dưới sân nhà đưa lên làm cho chàng khó chịu vô cùng. Sinh cúi đầu trên bao lơn nhìn xuống xem họ làm bữa cơm chiều. Các thức ăn tuy tầm thường, nhưng Sinh lấy làm lạ rằng chàng chưa bao giờ thèm muốn những cái đó như chàng thèm muốn bây giờ”. Bây giờ thì có thể tưởng tượng được rồi đây! Không biết là do đói hay do ánh nắng chiều sắp tắt chiếu thẳng vào mặt làm cho mắt hai bạn như mờ đi. Ôi! Qua Mỹ, đi tu nghiệp, có xe đưa đón, mà lại nhịn đói như thế này! Chuyện này mà kể ra chắc không ai tin. Không hẹn mà cả hai lại cùng đứng lên. Nhưng Xuân cảm thấy không còn sức. Còn Thu kêu lên nho nhỏ:
– Ôi giời ơi!
Xuân đang ỉu xìu nhưng cũng bật cười khi nghe tiếng than đó. Vừa lúc ấy chiếc xe mang dấu hiệu CDC hiện ra. Xuân vỗ tay. Còn Thu reo lên thất thanh:
– Sống rồi!!!
*
Từ hôm sau đôi bạn luôn nhắc nhau đừng coi thường chuyện ăn uống. Mỗi sáng khi ăn điểm tâm Xuân đều bảo Thu:
– Ăn nhiều nhiều một chút, trưa lỡ có ráng làm việc không có thì giờ nghỉ để ăn, thì cũng không bị đói.
Còn Thu thì cẩn thận hơn, mỗi ngày đều tự tay gói ghém một ít bánh cookies, chips hay chocolate đem theo cho cả hai chị em. Nhìn những thức ăn đó, hai bạn nhớ đến buổi chiều khi đi làm fingerprint về đến nhà, người lả đi, hai bạn kịp thấy hai túi quà của người thư ký nhà trọ đưa cho hôm qua, chưa kịp mở. A, thì ra là “túi thức ăn cứu đói”! Nhà trọ đã dành cho mỗi người khách mới đến một túi như thế, bên trong có một phong bánh đậu phọng, một phong kẹo, một gói mì ăn liền, một gói trà, một gói cà phê và một gói đường. Hai bạn nhìn nhau rưng rưng nước mắt. Người ta thật chu đáo. Thế mà mình đã không biết đến điều này.
Gọi là nhà trọ cho gọn, thật ra nơi Xuân và Thu cư ngụ trong suốt nửa năm ở Atlanta là một tòa nhà gần giống như khách sạn, nhưng trả tiền ở từng tháng, phòng ngủ riêng, còn thì sử dụng nhà bếp và phòng ăn chung nên có được bầu không khí như ở gia đình.
Villa International, tên của nhà trọ là thế. Xuân và Thu hay gọi tắt tên nhà là “Villa”. Dần dần Xuân và Thu có dịp tìm hiểu thêm về Villa mới biết đây là nhà trọ lập ra do Hội Thánh Tin Lành để giúp đỡ những người đi học và tu nghiệp, không phân biệt chủng tộc, tôn giáo, có nơi ăn ở rẻ và thân mật…
Villa International là một khu nhà hai tầng nằm ngay dưới chân đường đồi, hơi khuất sau một ngõ quanh. Có một khu đậu xe rộng rãi, rồi đến một khoảng sân xinh xắn với những bàn ghế nho nhỏ để mọi người có thể ngồi nghỉ chân. “Đi về Villa”! Sống nửa năm ở đó, nghe cũng thân ái khi gọi như vậy, giống như “đi về nhà”. Sáng dậy sớm, chuẩn bị ăn nhẹ rồi đi bộ qua CDC chỉ mất 5 phút. Trưa ăn tại cafeteria của trung tâm. Chiều về Villa nấu nướng với nhau và ăn tối. Đêm thì xem TV chung dưới phòng sinh hoạt, hoặc chơi bi-da, hoặc đọc sách trong thư viện. Và cũng có một nhà nguyện nho nhỏ dành cho những ai muốn vào cầu nguyện.
Những cư dân của Villa đến từ khắp năm châu. Họ dễ hòa nhập với nhau trong bầu không khí thân thiện một “home-away-from-home”. Ngày ngày họ tỏa ra hai nơi để học và làm việc: CDC và trường đại học Emory. Cả hai nơi này đều gần Villa nên tất cả cư dân đều không phải sắm xe hơi hay bận tâm về các lộ trình xe bus. Rồi thì băng qua một con đường nhỏ, lên dốc một ngọn đồi khác là họ có thể đến một siêu thị để mua sắm thức ăn về dự trữ và nấu ăn hàng ngày. Cuối tuần lại có những tình nguyện viên làm việc trong Hội Thánh đến để lái xe đưa họ đi phố mua sắm hoặc du ngoạn các danh lam thắng cảnh. Muốn đi đâu khác nữa thì mọi người đã có xe lửa, xe bus. Và những chuyến xe bus của vùng này, đến và đi rất đúng giờ, mà cũng rất đặc biệt: rất vắng khách, ngoại trừ lúc giờ tan sở thì có hơi đông một chút, còn thường thì chỉ có một hay hai người khách là cùng, nếu không muốn nói là nhiều lúc chỉ có người tài xế trên xe.
Những tháng ngày học hành và làm việc cũng khá bận rộn. Tuy vậy, Xuân và Thu cũng dành thời gian những dịp lễ để đi thăm bà con. Xuân có khá nhiều thân nhân ở rải rác khắp Hoa Kỳ, còn Thu chỉ có một người dì trước kia đi học ở Đông Đức rồi sau khi nước Đức thống nhất đã xin qua Mỹ ở lại. Xuân ít khi bàn đến chuỵên thời sự với Thu. Xuân không muốn những điều tế nhị ấy làm ảnh hưởng đến hòa khí tốt đẹp giữa hai bạn. Những người có duyên với nhau mới gặp được nhau. Cùng làm việc trong khoa học, thế là đủ rồi! Xuân tự dặn mình như thế và cảm thấy tâm yên ổn. Hằng đêm, hai chị em cùng ôn bài, bàn luận về công việc làm trong ngày, và rảnh rang thì cùng chia xẻ những câu chuyện về gia đình, chồng con. Xuân có hai cô cậu nhóc đang học trung học, còn Thu mới có một con trai hai tuổi. Nói chuyện về con cái bao giờ cũng là những đề tài vui và chẳng có gì để né tránh cả.
*
Một buổi trưa, khi Xuân và Thu đang đứng trong hành lang, một người đến trước mặt hai bạn, nhìn đăm đăm một chút rồi bỏ đi. Xuân kịp nhận ra chị là một phụ nữ đứng tuổi người Việt Nam. Chị đẩy một chiếc xe trên có một cái thùng to và các dụng cụ quét dọn cùng các chai hóa chất tẩy rửa. Bóng chị khuất sau khúc quanh dẫn đến khu nhà vệ sinh. Xuân và Thu hơi băn khoăn nhìn theo. Thu thắc mắc hỏi:
– Nơi đây có nhân viên người Việt sao chị? Em tưởng chỉ có người đi học như chị và em….
Thu bỏ lửng câu nói. Xuân im lặng. Chính Xuân cũng tự hỏi không biết người công nhân vệ sinh ấy là ai, gia cảnh thế nào. Trong đầu của Xuân vẽ ra nhiều giả thuyết.
Bẵng đi vài tuần lễ, có một em trai nét mặt sáng sủa đến tìm hai bạn trong lab, ngỏ lời thay cha mẹ em mời hai bạn cuối tuần đến nhà em dùng cơm. Em cũng là người Việt, đang thực tập trong CDC chuẩn bị ra trường đại học. Tuy có hơi ngần ngại nhưng Xuân nhận lời, Thu thấy thế cũng đồng ý theo.
Ngày gặp gỡ tại nhà của em trai sinh viên cũng là ngày hai bạn được biết mẹ của em chính là người phụ nữ trong hành lang hôm nọ. Những lạ lùng bỡ ngỡ nhanh chóng qua đi. Xuân và Thu được tiếp đãi với một bữa cơm Việt Nam thật ngon lành và… khá thịnh soạn. Trong ngôi nhà gọn gàng và đầm ấm, cha mẹ của em sinh viên không e ngại khi tâm tình cùng hai bạn.
– Chúng tôi sang Mỹ theo diện H.O. Hai cô thấy đó, chúng tôi rất khó khăn trong hoàn cảnh mới. Nhưng chúng tôi không ngại. Ông xã tôi bao năm tháng ở trong “tù cải tạo”, tự học nghề mộc, nay xin làm công nhân trong một xưởng đóng bàn ghế. Tôi không có vốn liếng Anh văn, nên chấp nhận làm “nghề janitor”. Làm gì cũng được, miễn được sống lương thiện và có tiền. Chúng tôi vất vả kiếm tiền nuôi các cháu học lên tới đại học và dành dụm mua nhà, mua xe. Đâu có gì phải xấu hổ, phải không các cô?
Xuân không nói gì, chỉ gật đầu cảm động. Nhưng Thu đang thấm nước mắt và nói hơi nghẹn ngào:
– Em cảm phục anh chị lắm. Đồng tiền anh chị làm ra, thật quý báu. Bởi vì… nó thật sạch sẽ.
*
Thu theo Xuân đi đến thăm nhà những người thân của Xuân thường hơn. Hai bạn siêng ra phố, vào ăn tiệm Việt Nam và đem những tờ báo về đọc. Thu càng ngày càng tỏ ra đăm chiêu, trầm mặc.
Nhiều khi hai bạn nhắc lại cái ngày bị nhịn đói và cười ngặt nghẽo. Có hôm đứng lại trước một shelter, Xuân chỉ vào những người đang sắp hàng nhận thức ăn và bảo bạn:
– Thật ra bảo là qua Mỹ nhịn đói cho nó lâm ly ai oán, chứ ở Mỹ không lo đói, phải không Thu? Tụi mình đói có một bữa, đâu thấm gì so với cái đói của những người trong tù, cái đói của những em bé thất học lang thang ở đầu đường xó chợ, cái đói triền miên của những người dân, đói không chỉ miếng ăn, mà còn đói nhiều thứ khác, đói tự do, đói sự thật….
Xuân nghẹn lời. Xuân không muốn nói thêm nữa…
Thời gian thấm thoát qua nhanh. Hai bạn trở về Việt Nam. Những quyến luyến với các thành viên của Villa từ nhân viên cho đến người trọ học thật sâu sắc làm Xuân và Thu thấy rất bùi ngùi. Xuân cũng bịn rịn chia tay với gia đình người chị ruột qua cuộc thăm ngắn tại Cali. Rồi từ đó, Xuân và Thu, hai người bạn, hai chị em khác họ, cũng nói lời tạm biệt để sau đó kẻ nam, người bắc.
Xuân đã có một quyết định. Nhìn tận mắt đất nước và con người tự do ở Hoa Kỳ, Xuân đã nhờ chị xúc tiến giấy tờ bảo lãnh đang chờ đợi. Xuân hiểu rằng ra đi đồng nghĩa với việc bỏ tất cả để làm lại từ số không. Cũng như những người bất chấp nguy hiểm đi trên sóng gió ngày trước vậy. Cũng như cha mẹ của em sinh viên kia vậy. Vợ chồng Xuân cũng sẽ như thế. Nhưng các con của Xuân sẽ có cả một chân trời của cơ hội.
Hơn năm năm sau, vào cái ngày gia đình Xuân sắp rời Việt Nam, Xuân gọi điện thoại ra Hà Nội thăm Thu và vắn tắt báo tin. Đầu giây bên kia, giọng của Thu ướt sũng như chìm trong nước mắt:
– Em chúc mừng chị, chúc mừng gia đình chị. Chị biết không, từ ngày đi tu nghiệp về, em đã có một cái nhìn khác đối với cuộc đời mà em vẫn sống. Ở đây, em sống trong một tầng lớp danh vọng, chức quyền, no đủ đến thừa mứa. Nhưng em ao ước mình cũng được ra đi như chị, để cho con em được sống trong một xã hội tốt đẹp hơn cái xã hội gian dối này. Chị ơi! Nếu được ban cho một điều ước, em xin ước rằng: “Em ước được là một “người làm nghề janitor” như người phụ nữ mình gặp trong CDC, chỉ để cho con em được giống như con của chị ấy, chỉ thế mà thôi!”.
Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh
(nguồn: vietbao online)
Cám ơn Phay Van đã post cho các bạn đọc. Truyện “Nhịn đói trên xứ Mỹ” vẫn còn thiếu một đoạn cuối Phay Van à.
@ Mai : Chào bạn !
Cho Nha Trang đường đột …khiếm nhã … hỏi bạn câu này nha :
* Nha Trang linh tính ….bạn Mai là…: ” MÙA PHƯỢNG NĂM NAY ” ?
* Em thảng thốt nhịp tim như ngừng đập
Hạ đã về : Hoa Phượng nở đầy cành
Trong phút chốc bảy năm trời học tập
Theo thời gian đã trôi cuốn qua nhanh
* Quyển lưu bút bạn vừa đưa ban sáng
Lời dặn dò – nhớ viết thật nhiều nghe !
Lần cuối cùng đời học trò áo trắng
Còn trao nhau lưu bút mỗi mùa ve .
* Bao kỷ niệm trong em bừng sống dậy
Thật thân yêu và rất đỗi dịu dàng
Ý tuôn tràn , ngập đầy trên trang giấy
Mà tim non cứ thổn thức mênh mang .
* Và có lẽ em chẳng còn tìm lại
Trên lối xưa bầy chim sẻ ngoan hiền
Chúng đã bay – bay vào vùng huyền thoại
Của tháng ngày trong cổ tích thần tiên…
( Trần Thị Nguyệt Mai – 1973 – )
Nếu đúng , cho Nha Trang được cảm ơn sự rung cảm sáng tác của bạn , vì bài thơ khi gặp và đọc lại , đã làm mình rưng rưng với bao kỷ niệm 1 thời học trò áo trắng ….
Nếu không đúng , thì Mai cho mình….cười…cười …xin lỗi Mai vậy nhé….!
Thân ái ,
Phay Van:
Một chi tiết nhỏ nữa là chị Cam Li chưa bao giờ là thư ký tòa soạn Tuổi Hoa. Có một thời gian chị làm “Cô Cò” (correctrice: sửa lỗi chính tả cho báo TH). Thư ký tòa soạn là bác Trường Sơn và sau đó là anh Hà Tĩnh.
@ Phay Van :
Chị Cam Li có truyện ngắn ” Mùa Xuân , Mai Vẫn Nở ” , trong truyện này chị ấy có đề cập đến ” chi tiết nhỏ ” mà bạn Mai đã lưu ý đính chính cho em đó Phay Van !
Thú vị lắm khi đọc truyện ngắn này Phay Van ơi , bởi Cam Li đã cho độc giả yêu mến tờ báo Tuổi Hoa ngày xưa … biết được phần nào ” cái không gian và nhịp thở ” của tòa soạn báo Tuổi Hoa , dù chỉ là 1 vài nét phác thảo …
Phay Van ơi,
Ở phần giới thiệu, em bỏ chi tiết chị Mỹ Thanh là thư ký tòa soạn đi (vì chi tiết đó không đúng). Em thêm vào: “Ngoài Giải Nhất Văn Chương Phụ Nữ 1970, chị Mỹ Thanh còn nhận giải thưởng Vinh danh tác phẩm năm 2010 với truyện “Mùa xuân, mai vẫn nở” do Việt Báo tổ chức”.
Chị gởi em truyện “Mùa xuân, mai vẫn nở” để em post lên cho các bạn đọc đây:
Mùa Xuân Mai Vẫn Nở
Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh
– Lời tác giả: Tên của các nhân vật chính trong truyện đã được tác giả thay đổi. Mọi sự trùng hợp, nếu có, đều là ngoài ý muốn. Kính mong quý độc giả thông cảm.
***
Khu vườn dễ thương mang tên Tuổi Hoa, nơi nuôi dưỡng những cây bút tuổi học trò, nằm khiêm nhường bên cạnh nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế đường Kỳ Đồng Sài Gòn. Mặc cho ngoài đường nhộn nhịp đông đúc, bên trong khuôn viên nhà thờ thật êm ả.
Muốn đi vào tòa soạn Tuổi Hoa, Ly phải qua nhà sách Đức Mẹ. Đến một hành lang ngắn, Ly gõ cửa căn phòng đầu tiên và rón rén thò đầu vào, gặp Cha Chân Tín, vị chủ nhiệm của báo, Ly lên tiếng chào Cha. Cha với nụ cười thật hiền hòa, lúc nào cũng hỏi han Ly. Rồi tiếp đến, sang chào bác Trường Sơn là thư ký tòa soạn, Ly nhận một lô thư từ để đem về căn phòng nhỏ của mình. Bác Trường Sơn vẻ nghiêm nghị nhưng luôn sẵn sàng nở nụ cười ưu ái đối với Ly và chỉ dẫn cho Ly những điều cần thiết trong công việc. Sáng đi học, chiều đi làm thư ký nhỏ kiêm “thầy cò”(1), Ly cảm thấy vui lắm.
Những buổi chiều khi đã xong công việc của tòa báo, Ly thường hay thơ thẩn đi qua phía nhà thờ. Ly không vào bên trong giáo đường, mà dừng lại trước hang đá có tượng Đức Mẹ. Những bó hoa tươi mọi người đem đến sắp xếp trang trọng xung quanh chân tượng, bên cạnh những tấm biển nho nhỏ ghi dòng chữ “Tạ ơn Đức Mẹ”. Không gian yên tĩnh thật dễ thương. Ly để tâm tư chìm vào lời cầu nguyện.
Cái thời xa xưa, mỗi khi bác Trường Sơn bảo Ly viết bài, thì ý tưởng ở đâu tuôn trào dào dạt. Nhất là đến Tết, không khí nhộn nhịp của tòa soạn làm cho cô bé tăng thêm cảm hứng. Thuở đó, Ly hăng say viết. Viết như mình thở vậy. Hầu như chỉ cần một hình ảnh lướt qua trước mặt, thậm chí trong ý nghĩ, hay chỉ cần một từ ngữ nào đó, cũng đủ gợi nên cả một câu chuyện. Các bạn đọc nhỏ tuổi đến chơi tòa soạn vào những chiều thứ bảy, thường đặt ra cho Ly những câu hỏi đại khái như :”Truyện của Ly viết là thật hay là tưởng tượng?”. Ly cũng thành thật nói ngay: “Là thật, đan xen với những điều tưởng tượng”. Và thế là Ly đã có những người bạn văn nghệ thật dễ mến đến gặp gỡ, trò chuyện thường xuyên. Cuộc sống của cô học trò và rồi trở thành cô sinh viên xem ra có vẻ bình yên với những bài viết đăng đều đặn trên những kỳ bán nguyệt san, và thỉnh thoảng một quyển truyện dài dành cho tuổi mộng mơ. Nhưng bên cạnh đấy, cô có một góc đời khác: sống với công việc xã hội, vì thế những mảnh đời thật từ đó cô đã đem vào trong văn. Đơn giản là như thế!
Trong những người bạn gần gũi với Ly nhất, có cô bé thi sĩ nhỏ Quỳnh Mai. Cặp kính cận gắn trên khuôn mặt bầu bĩnh làm Quỳnh Mai có một vẻ hóm hỉnh dễ thương. Quỳnh Mai thường đến chơi với Ly, nói chuyện một chút và ngồi yên lặng xem những trang báo mà Ly đang sửa. Từ ngữ chuyên môn gọi đó là những “bản vỗ” (2), nghĩa là những bản in nháp để Ly sửa chính tả hay những chữ sai nếu có, rồi khi đã được thợ nhà in sắp chữ lại cho hoàn toàn đúng mới đem in thật để phát hành. Quỳnh Mai cũng hay xin phép bác Trường Sơn cho theo Ly xuống nhà in để xem những cỗ máy in thật lớn, tiếng máy dập ì ầm làm át cả tiếng nói, và ngắm những chồng báo cao ngất ngưỡng, những hộc gỗ to tướng đựng đầy những mẫu chữ khắc bé tí xíu, chữ nào để riêng hộc nấy; rồi đến những nơi đóng gáy, cắt xén…. Chao ôi, công việc trong nhà in thật là bận rộn, khiến cô bé Quỳnh Mai rất ngạc nhiên. Cô bé nhìn “chị Ly” của mình với tất cả vẻ thán phục. Nhưng Ly đã quen rồi! Có chăng là cái ngày đầu tiên tiếp nhận công việc làm “thầy cò”, Ly cũng “ngố” không kém. Học hỏi từ từ rồi đâu cũng vào đó. Trong tòa soạn thì Ly được xem là em út, nhưng đối với các độc giả nhỏ tuổi trạc bằng Quỳnh Mai thì Ly được làm chị. Ngoài việc làm “thầy cò”, Ly giúp bác chủ bút trả lời thư tín, sắp xếp bài vở và, quan trọng nhất, là viết bài!
Mùa xuân năm đó, tòa soạn nhộn nhịp hơn cả bình thường với không khí chuẩn bị cho báo Tết. Căn phòng nhỏ mà Ly làm việc mỗi buổi chiều cũng là phòng hội họp. Những người phụ trách các mục thường xuyên của tờ bán nguyệt san Tuổi Hoa, như các anh Hà Tĩnh, Quyên Di, Trinh Chí, họa sĩ Vi Vi, thầy Hoàng Đăng Cấp.., mỗi người một vẻ. Anh Quyên Di nhỏ nhẹ, anh Hà Tĩnh điềm đạm, anh Trinh Chí vui vẻ, thầy Hoàng Đăng Cấp nói rất nhanh và kể chuyện rất hay, riêng họa sĩ Vi Vi trong lớp áo nhà binh rất vui tính, ân cần và lúc nào cũng tài tình với ngọn bút lông. Bên cạnh đó, còn có những cây bút trẻ cộng tác viên cùng về tụ tập tại căn phòng nhỏ của Ly, hỏi han, bàn luận vui vẻ. Nhân đó, Ly cũng trao cho từng anh chị những bức thư do độc giả gửi đến. Lại những điều chia xẻ thật vui. Khi gần tối, mọi người đã về hết, chỉ còn Quỳnh Mai ở lại cùng với Ly để giúp dọn dẹp căn phòng, Ly lại có một người khách mới đến. Một cô bé!
Mai Vi nhỏ hơn Ly bảy tuổi. Khi cô bé xưng tên, Ly biết ngay đó là vị độc giả thiếu nhi tuần trước đã viết cho Ly một bức thư làm quen. Và bây giờ thì quen thật. Như đã từng biết nhau, họ tay bắt mặt mừng. Và dĩ nhiên, có duyên gặp gỡ cả Quỳnh Mai nữa. Hai cô bé thích thú khi thấy có cùng tên Mai. Có lẽ những lời khách sáo không dành cho những người bạn nhỏ này, nên cả ba người đã vào chuyện rất nhanh. Mỗi người tự kể chuyện về mình và hỏi thăm hai người kia. Đối với Ly và Quỳnh Mai, cuộc sống khá êm ả: sinh ra, lớn lên và học hành tại thành phố. Riêng Mai Vi lại có cả một khung trời cơ cực. Tuổi thơ không yên bình trải ra tại một làng nhỏ ở quận Đông Hà thuộc tỉnh địa đầu Quảng Trị. Lên tám tuổi, cô bé đã hứng chịu một tai ương đau lòng. Nhà thờ bị pháo kích từ phía bên kia, trong khi đang có đông đảo giáo dân làm lễ. Bà ngoại và Mai Vi đều bị mảnh đạn hỏa tiễn làm mất cả đôi chân. Người mẹ góa bụa của Mai Vi phải gánh vác gia đình, làm lụng vất vả để nuôi sáu miệng ăn. Rồi mùa hè đỏ lửa, cả gia đình gồng gánh nhau chạy vào nam trên đại lộ kinh hoàng. Đến vùng đất tương đối yên lành, gia đình em được hội thánh giúp đỡ tạo dựng cơ nghiệp ở Bình Tuy. Mai Vi và các em theo học ở làng Bồ Câu Trắng, dưới sự chăn dắt của một vị linh mục nhân từ.
Khi Mai Vi nói xong câu chuyện về mình, nét mặt cô bé vẫn bình yên trong một vẻ cam chịu. Nhưng Ly và Quỳnh Mai thì nước mắt ràn rụa. Mai Vi nói bằng giọng Quảng Trị dễ thương:
– Chị Ly biết không, em vào trong ni, có thời gian ở làng Bồ Câu, đọc sách báo nhiều, em mới biết có Tủ sách Tuổi Hoa. Tình cờ một hôm bạn em tặng cho em một quyển truyện của chị, truyện “Khúc lan can gẫy”, em cảm thấy em giống như nhân vật người thương binh trong ấy. Em thấy thương mến chị, và em quyết tìm đến chị đấy!
Quỳnh Mai lau nước mắt, gượng cười:
– Còn chị, Mai Vi biết không, hễ chị Ly viết truyện thì chị Mai cảm tác thành thơ. Vậy nên bây giờ ba chị em mình kết nghĩa luôn nhé!
Ly ôm hai cô em gái vào lòng:
– Cám ơn Phật, cám ơn Chúa đã cho chị em mình gặp nhau. Nè, để chị nhờ chú Hai ở nhà in chụp cho chúng mình một tấm ảnh, há!
Khi Ly chạy xuống nhà in rồi trở về phòng, chú Hai sắp chữ cũng lên theo. Ba chị em kết nghĩa đứng bên nhau. Ly làm chị nhưng bé nhỏ hơn cả. Quỳnh Mai làm bộ nhón gót. Còn Mai Vi, trên đôi chân dài bằng gỗ, em là người cao lớn nhất.
Quỳnh Mai là cô bé thích làm thơ, những vần thơ ngắn nhưng cô đọng tình cảm của một cô học trò. Quỳnh Mai mơ mộng khi nhìn những con chim nhỏ bay vào những ô cửa lớp rồi lại bay ra; khi nhìn lên trần nhà của lớp học, suy nghĩ về những tổ chim ấm áp được xây trên cánh quạt đã hư. Quỳnh Mai như cô bé bâng khuâng trước viễn ảnh ngày mai sẽ lớn, ngày hồn nhiên sẽ qua, để một chiều một sớm… thấy đời những xót xa… Những vần thơ trong sáng của cô bé được đón nhận với chân tình của độc giả. Và cô bé lại thích làm Ô chữ. Ô chữ, là trò chơi, là tiết mục không thể thiếu trong các tạp chí thiếu nhi. Nhìn Quỳnh Mai cắm cúi làm Ô chữ, cặp kính cận hơi trễ xuống, Ly bật cười. Ly tự hỏi không biết cô bé mũm mĩm này sẽ có được một cuộc sống hồn nhiên và bình dị như những vần thơ của cô hay không.
Còn Mai Vi, không viết văn làm thơ nhưng rất say mê đọc sách. Những năm tháng ấu thơ cô bé sống nhiều dưới hầm hơn là trên mặt đất. Cô bé đến trường học và cả khi ngồi trong lớp cũng luôn sẵn sàng chui xuống hầm. Tuổi nhỏ của Mai Vi có một ngả rẽ hãi hùng là thời điểm tai nạn đến làm em lìa bỏ đôi chân. Sau khi ở bệnh viện về, em vẫn phải ở dưới hầm. Trong nỗi đau đớn của chính mình, em còn phải chứng kiến nỗi đau của bà ngoại. Có một lần bà ngoại nghe tiếng đạn pháo kích ngay gần miệng hầm, bà quên rằng mình không còn đôi chân, bà lao xuống giường để chạy và đã ngất đi vì đau đớn. Em hiểu được cái gì là sự chịu đựng, vâng, chịu đựng đến tê dại.
Từ lúc có Mai Vi, Ly và Quỳnh Mai siêng đến thăm em ở nhà vị bác sĩ người Mỹ giúp em theo dõi vết mổ. Em đã phải qua nhiều cuộc giải phẫu nữa vì xương vẫn tiếp tục phát triển. Xong đợt điều trị, Mai Vi xin về lại Bình Tuy để sống với gia đình và tiếp tục đi học.
Mùa xuân 1975 là mùa xuân cuối cùng của ba chị em kết nghĩa. Hai cô bé mang tên Mai đến rồi đi mất. Những ngày tháng ở lại Việt Nam, Ly không nhận được tin gì của Quỳnh Mai và Mai Vi nữa. Ly đã lạc họ. Không còn nữa khu vườn tuổi trẻ thơm hương của Tuổi Hoa. Tòa soạn đã biến mất. Và những năm sau đó, khu vực nhà in biến thành một nhà quàn để tổ chức tang lễ. Những lần đi ngang đó, Ly ngừng lại, lang thang tìm một chút gì quen thuộc. Chú Hai và những người thợ cần cù trong nhà in, bây giờ chắc đã đi tứ tán để tìm phương kế sinh nhai nơi đâu không biết. Bên nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế, vẫn vang lời kinh cầu, vẫn có những người đứng yên lặng thầm khấn nguyện trước tượng Đức Mẹ, vẫn có những bó hoa tươi bình an nép bên chân tượng, vẫn có những tấm biển nho nhỏ ghi dòng chữ “Tạ Ơn Đức Mẹ”; nhưng bên này, tòa soạn Tuổi Hoa, như thể chưa từng đã có. Cha Chân Tín còn ở lại nhưng Ly không hề gặp Cha bao giờ. Bác Trường Sơn đã ra hải ngoại. Tòa soạn đã đóng cửa. Ly chỉ còn để cái tên “Tuổi Hoa” nằm trong một góc u hoài của trí nhớ. Ly thở dài bước đi. Có lúc như nghe văng vẳng tiếng cười nói trong những chiều thứ bảy vui tươi. Những gương mặt thân quen lướt qua trong đầu: những người còn sống, gặp lại rồi, hay đã xa vời mọi nẻo, cùng những người đã chết, đó là những thi sĩ, văn sĩ học trò ngày nào xếp bút nghiên lên đường chinh chiến….
Những mùa xuân thản nhiên đi qua trong đời. Người đọc không thấy Ly viết gì nữa. Ly vẫn sống đó, nhưng mặc nhiên đã gác bút.
Đất Mỹ, lạ, rồi cũng trở thành quen.
Nhiều người sống trên đất Mỹ nhưng xem nơi đó như một người chồng hờ.
Ly không như thế. Ly đến xứ Mỹ như tìm đến một người bạn chưa thân nhưng đã biết. Cũng như trong đời Ly, vốn đã có duyên gặp gỡ với những người bạn dễ thương, như Quỳnh Mai, như Mai Vi, khi gặp nhau là có thể nói chuyện được với nhau vì đã có một cái gì gắn bó rất vô hình. Đất Mỹ không phải là cái cây bằng vàng mà ai cũng có thể vói tay là hái được trái. Đây cũng là nơi đầy những khó khăn thử thách. Những người chấp nhận đánh đổi nhiều thứ chỉ để lấy một thứ đều biết rằng phải vượt qua rất nhiều gian nan. Sống trên đất Mỹ, đặc biệt là ở giai đoạn suy thoái kinh tế, lại càng thấm câu “Xin nhận nơi này làm quê hương dẫu cho khó thương” (3). Hai mươi mấy năm tưởng không rứt ra được vì muôn ngàn mối ràng buộc, cuối cùng cũng phải chọn rời bỏ quê nhà Việt Nam với lòng nhớ thương ray rứt những người thân yêu. Đến nơi đây, với đôi bàn tay trắng, Ly cùng gia đình tạo dựng lại tất cả. Và đã có một quê hương thứ hai.
Một đôi lần có những người quen hỏi Ly sao không viết lại, vì đâu có gì ngăn trở nữa, Ly mỉm cười: “Vâng, thì viết lại!”. Một chục cái “vâng” như thế rồi chìm luôn. Thảo nào người ta nói muốn sáng tác cần phải có cảm hứng. Ly có một vài bài viết đăng trong tập san của một hội ái hữu cựu học sinh rồi lại chìm nữa. Chẳng lẽ ở cái xứ này người viết sẽ không còn cảm hứng? Ô không! Nhưng… hãy để mọi việc tùy duyên!
Bỗng một hôm Ly tình cờ xem trên một website, truyện của mình được một bạn trẻ đánh máy gửi đăng. Ly vô cùng cảm động. Hóa ra mình cũng có thể vào chơi trong những tòa soạn báo “ảo”! Thấy các bạn đánh máy sai quá nhiều lỗi chính tả, trách làm sao được vì có lẽ bạn học hành ở Mỹ, đánh máy tiếng Việt như thế là quý lắm rồi, Ly cảm thấy mình không thể im lặng như một “người quá cố”, nên bắt đầu tham gia vào các diễn đàn và tự đánh máy lại các truyện của mình ngày xưa, gửi đăng. Ngày xưa, người viết hoặc đánh máy bằng bàn máy đánh chữ, hoặc viết tay, rồi thợ nhà in sắp chữ để in ra, không hề có “file” như bây giờ để có thể muốn gửi đi đâu thì gửi. Vì thế Ly đã phải “gõ” lại toàn bộ những truyện của mình. Không thể ngờ được, những người còn yêu mến sách truyện ngày xưa có rất nhiều. Bỗng dưng như tìm được những khu vườn thân mến, Ly dần dần đăng lại các truyện cũ của mình. Và thật đáng ngạc nhiên, có những người bạn chưa từng có mặt ở tòa báo Tuổi Hoa ngày xưa, nay lại có thành tâm sáng lập Tủ sách Tuổi Hoa Online. Và Tuổi Hoa đã sống lại!
Ly đăng đã gần hết những truyện ngắn, truyện dài của mình. Nhưng chỉ là đăng lại, chứ chưa hề viết lại. Và rồi, đến một hôm, khi đánh máy đến trang cuối cùng của truyện dài bị xuất bản hụt vì nộp cho tòa soạn vào tháng tư 1975, Ly bàng hoàng khi nhìn thấy lại tên của Mai Vi, người em gái đã gợi cho Ly cảm hứng viết nên câu chuyện về những thiên thần nhỏ trong làng cô nhi chiến tranh. Mai Vi ơi! Em đâu rồi? Và Quỳnh Mai nữa… Hơn ba mươi năm, ôi thời gian dài quá! Cuộc sống thăng trầm, con người ly tán, có lúc chị đã quên mất hai em, cũng như đã quên mất nhiều người. Không đâu! Chính xác hơn là, ta đã có lúc không nghĩ về nhau, chứ không phải đã quên nhau! Ly ngồi vào máy, nhắm mắt lại… Ngày xưa, chỉ cần một hình ảnh thoáng qua, chỉ cần một từ ngữ, đủ gợi nên cả một cốt truyện. Bây giờ, làng cô nhi chiến tranh, rồi làng Bồ Câu Trắng, rồi Mai Vi … tất cả cuốn đi như một cơn gió lốc rồi sắp xếp lại, nhưng thành hình ảnh của một Việt Nam sau 1975. Ôi, cảm hứng đã trở về! Ly say sưa viết nên đoạn cuối cho truyện dài tưởng đã chấm dứt hơn ba mươi năm trước. Ưu tiên dành đăng là cho Tủ Sách Tuổi Hoa Online, khu vườn làm sống lại những bông hoa tưởng đã úa tàn. Và thật vui mừng, truyện dài xuất bản hụt của Ly giờ đây lại được họa sĩ Vi Vi vẽ cho một hình bìa. Người họa sĩ tài ba của Tuổi Hoa, của thiếu nhi và những cô bé cậu bé mộng mơ, giờ đây đang sống ở nơi ví như một Cà Mau của Hoa Kỳ, chỉ trong vài phút đã vẽ nên một hình bìa, không bằng ngọn bút lông, mà bằng computer.
Cơ duyên lại dẫn Ly đến với Việt Báo Online, với mục “Viết về nước Mỹ”. Ly đã có cảm hứng để viết về những mảnh đời sống trên đất nước này, trong đó có mình. Khác với ngày xưa, khi gửi bài là Ly cầm trao thẳng cho bác chủ bút. Còn báo “ảo” bây giờ, Ly chỉ cần một động tác là “attach” và một “cú click” thế là không cần tốn mấy con tem và cái bì thư. Ban biên tập cũng “ảo” nốt! Nhưng không! Thế giới “ảo” nhưng con người là thật. Ly nhận được email của ban biên tập khuyến khích Ly viết tiếp. Ly trả lời thư, cám ơn Việt Báo đã cho cây bút Ly có nơi chốn để tìm về. Vâng, không phải là “đến”, mà như đã “tìm về”. Thế thôi, ngoài ra Ly không có ước muốn nào khác.
Lại sắp đến mùa xuân!
Ly không có thói quen mỗi mùa xuân lại than thở mình bị chồng thêm một tuổi, nhưng hay tưởng nhớ đến những kỷ niệm đã qua. Thêm một điều: sống ở mảnh đất này, hình như Ly cũng học được cách tạo cho mình tinh thần lạc quan và truyền cái lạc quan cho người khác như truyền một loại “virus”.
“Mùa xuân sắp đến!” Nếu không có lời nhắc nhở này, Ly sẽ không nghĩ đến một quán tính hồ như đã bị lãng quên từ lâu: viết bài báo xuân. Bây giờ Ly không còn có căn phòng nhỏ trong tòa soạn, không còn có những đồng nghiệp, những anh chị em viết văn làm thơ, những bạn đọc, những người thợ cần cù trong nhà in… Tất cả bây giờ nhường cho thế giới “ảo”. Ly hình dung những con người thật, cũng đang miệt mài viết lách, cũng đang chạy đua cho kịp thời gian “ra báo”. Ôi! Thật là sinh động! Thế nhưng sẽ viết gì cho mùa xuân này đây? Chưa biết nữa! Nhưng Ly sẽ viết, như một cách cám ơn mảnh đất, khu vườn đã cho mình có nơi trồng những bông hoa.
Một buổi tối, Ly nhận được một cú điện thoại…
– Chị Ly! Em đây, Quỳnh Mai đây!
– Quỳnh Mai? Là Quỳnh Mai sao? Thật không?
– Thật, chị ơi!
– Em đang ở đâu? Làm sao em tìm ra chị?
– Em đang ở Ohio. Chị không biết em ra sao, nhưng em thì biết chị đã qua Mỹ, nhờ em đọc bài của chị trên Việt Báo. Em mừng lắm, biết đây chính là chị Ly của em rồi! Em biết rằng chị đã qua định cư ở đây. Em đã vào internet tìm ra số điện thoại của chị nè, hay không?
– Hay quá! Nhưng bao lâu nay, em làm gì?
– Năm 87 em vượt biên, chị ạ! Chị không ngờ đâu, con nhỏ Quỳnh Mai hí hửng nhỏ tí teo của chị lại hứng chịu nhiều nỗi khó khăn hiểm nghèo trên biển, nhưng nhờ ơn Trời Phật, em đã vượt qua hết chị ơi!
– Em giỏi quá! Chị mừng lắm! Hãy nói cho chị nghe từ đó đến nay em đã làm gì?
– Đầu tiên em làm việc thiện nguyện chị ạ! Ở Pulau Bidong, Mã Lai, em làm nhân viên thống kê cho trại, rồi chuyển sang Sungei Besi, em làm việc tại văn phòng trợ giúp người tàn tật, rồi sang Bataan học sáu tháng để đi định cư ở Mỹ. Tại Bataan em cũng giúp việc thiện nguyện làm trợ giáo và phụ tá cán sự xã hội, thăm hỏi và giúp đỡ các trại viên gặp khó khăn.
– Ôi! Em thật giỏi! Bây giờ em ra sao?
– Em đã có gia đình và có hai con rồi chị ạ. Bây giờ em và ông xã lo “đi cày” nuôi con.
– Chị cám ơn Trời Phật đã giúp chị em mình tìm lại nhau. Có khi mình đã quên bẵng nhau. Nhưng chị vẫn luôn nhớ đến em, đến mọi người ở Tuổi Hoa.
– Các anh chị ở Tuổi Hoa thế nào rồi hở chị?
– Thầy Hoàng Đăng Cấp, anh Hà Tĩnh, anh Trinh Chí và rất nhiều người còn ở lại Việt Nam. Anh Trinh Chí vừa mới mất vì bạo bệnh. Anh Quyên Di, anh Vi Vi đã yên ổn ở Hoa Kỳ. Còn nhiều nữa, những người viết cho Tuổi Hoa, người đi kẻ ở, chị không biết hết…
Cả hai chị em cùng im lặng. Ly đoán rằng ở đầu dây bên kia, Quỳnh Mai hẳn cũng đang bùi ngùi như Ly, mường tượng ra cảnh thân ái ở tòa soạn Tuổi Hoa. Ngày xưa thoáng qua như một cái bóng, thật không ngờ đã 35 năm!
Giọng Quỳnh Mai nghe ray rứt:
– Còn Mai Vi nữa, phải không chị? Em không biết Mai Vi ra sao. Những lúc ở đảo, em cũng có ý tìm kiếm Mai Vi, hy vọng gặp được em ấy trong số những người tị nạn. Nhưng…
Một tuần lễ sau, Ly nhận được hai bức email chuyển đến từ hai người bạn phụ trách website Tủ Sách Tuổi Hoa Online. Email của Mai Vi! Ly không tin vào mắt mình. Ly còn lẩm cẩm tự hỏi Mai Vi nào đây? Chẳng lẽ lại là một Mai Vi khác?
– A lô! Mai Vi!
– Chị Ly, em đây!
– Là em… là Mai Vi hở? Là Mai Vi của Làng Bồ Câu Trắng?…
– Dạ phải. Chị nghe giọng nói mà không nhận ra em sao?
– Giọng Quảng Trị… Chị nhận ra chứ! Nhưng chị không tin…
– Em được bảo lãnh qua Mỹ năm 90. Chị biết không, khi Làng Bồ Câu Trắng giải tán, em thôi học, sống với gia đình và làm nhiều nghề thủ công để sinh sống. Ngoại em ở lại và đã mất rồi chị ạ! Em đi với mẹ và các em của em.
– Em… ra sao rồi?
– Em đang ở Seattle. Em đã có gia đình, có một đứa con gái mười lăm tuổi. Cháu ngoan lắm, nói tiếng Việt rất rành. Anh nhà em thương em lắm chị ơi! Em đang sống rất hạnh phúc.
– Cám ơn Chúa!!! Chị sẽ đi thăm em, có cả Quỳnh Mai nữa.
– Ôi, hay quá! Chị cũng đã tìm lại Quỳnh Mai sao? Ba chị em mình sẽ gặp nhau!
– Nhưng em hãy nói cho chị biết, làm sao em tìm ra chị?
– Thật là may mắn. Em đọc báo Mục Vụ, một hôm thấy bài đăng nhân lễ Vu Lan, viết về tâm tình của người mẹ, nhìn tên tác giả em biết ngay đó là chị. Theo đường dẫn vào website Tủ Sách Tuổi Hoa, em viết email cho hai anh chị phụ trách để nhờ chuyển thư em đến chị.
– Nhưng báo Mục Vụ làm sao có bài của chị mà đăng?
– Một độc giả ở Thụy Sĩ trích bài của chị từ Việt Báo Online và gửi cho Mục Vụ để chia sẻ nhân mùa Vu Lan nên em đọc được. Chị thấy hay ghê không? Mục Vụ là báo của Công giáo, và là báo in đó chị!
– Ôi, như vậy là bài đã đi vòng một đoạn đường dài!
– Thật là vui, phải không chị?
– Thật là kỳ diệu! Mai Vi ơi! Còn… đôi chân của em..?
– Vẫn nhức nhối chị ạ! Đến mùa lạnh là em đau thấu tới trong xương. Đêm ngủ em vẫn thường gặp ác mộng. Nhưng tình yêu gia đình đã giúp em sống vui. Bây giờ em không đi chân giả nữa vì nó nặng nề quá, em dùng chiếc xe lăn và làm mọi công việc trong nhà rất tốt. Em cũng đi đây đi đó để thưởng thức cuộc sống. Chị ơi! Hãy mừng cho em, chị nhé!
Mùa xuân, ở đất Mỹ khó tìm thấy một cành mai. Nhưng mùa xuân này Ly đã có Quỳnh Mai và Mai Vi, hai người em tinh thần, nhờ thế giới báo “ảo” , và báo “thật”, Ly đã tìm lại. Chị em mình sẽ gặp nhau, năm 2010, hai em nhé! Mai vẫn nở!
Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh
Chú thích:
(1):thầy cò: corrector, người sửa lỗi sắp chữ trong nhà in
(2): bản vỗ: proof
(3): “Xin nhận nơi này làm quê hương”, nhạc Nguyễn Đức Quang.
(nguồn vietbao online)
Phay Van,
Thêm vào giùm chị: nguồn vietbao online
Cám ơn em.
Nha Trang mến,
Cám ơn bạn đã đồng cảm với bài thơ “Mùa phượng năm nay”. Ai là học trò mà lại không xúc động với mùa hạ, hoa phượng và lưu bút phải không bạn? Kỷ niệm học trò thật đẹp mà mỗi lần nhớ tới mình vẫn cứ rưng rưng.
Nha Trang thật dễ thương. Nghe tên bạn, mình tưởng tượng đến một người đẹp, dễ thương và hiền hòa như miền biển Nha Trang mà mình đã một lần đặt chân tới.
Mai mến ,
Cảm ơn Mai hồi đáp thật ấm tình với mình nha .
Nha Trang , thành phố biển hiền hòa mà Mai đã một lần đặt chân tới…., là nơi mình sinh ra , lớn lên và trưởng thành …, nhưng sau 1975 , thì mình đã rời xa trong niềm luyến tiếc rồi Mai ơi .
Chao ôi ! tưởng tượng của Mai làm mình rất vui , nhưng…ngượng chín cả người…. vì Mai ơi :
” Bốn mươi năm trước , Trang…..mười tám .
Mai phán , làm Trang….chín cả người ! ”
Thơ con cóc …Ai cười hở mười cái răng đó nha ….
Mến ,
@ Nàng Phay: Ở Nhật bản lại có nguyên tắc ” cười hở 6 cái răng” dành cho nhân viên những nơi có tiếp xúc trực tiếp với khách hàng đó .
@ Nàng Phay: mỗi phía 6 cái, tức là nụ cười đủ làm” vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi”, các nhân viên phải tập nụ cười đúng mực, k quá xuề xòa mà cũng k được lãnh đạm.
@ Phay Van & Hà Linh yêu mến ,
Thành ngữ ” Cười hở mười cái răng ” về ý nghĩa ám chỉ điều gì , chắc mọi người đều hiểu !
Chị nghĩ , thành ngữ này chắc đã có từ lâu đời trong dân gian nước Việt ta , không cứ gì là Nam hay Bắc , bằng chứng là trong tự điển tiếng Việt ở miền Bắc xuất bản trước đây , do Gs Nguyễn Lân biên soạn đã có thành ngữ này , em ạ …! Chỉ có điều trước 1975 , chị không rõ ở ngoài Bắc có dùng phổ biến không , chứ trong Nam thì quả thật dùng tương đối phổ biến…
Hà Linh chia sẻ thông tin về kỷ thuật huấn luyện nhân viên tiếp tân ” cười hở 6 cái răng ”
thật là …vui vui…!
Với niềm…vui vui..này , chị lại nhớ đến cô Gs người Huế dạy Triết thuở nào , Cô đã cho lớp phân tích nụ cười bí hiểm của nàng Mona Lisa trong bức danh họa La Joconde của Họa sĩ thiên tài Leonardo da Vinci , dưới góc nhìn phân tích của Triết gia , nhà tâm lý học Paul Ekman…! có 1 chi tiết rất ấn tượng với những ai đã từng học Cô – Cô tên : Phạm Thị Thanh Mỹ – đó là : ” Khi ta xoay dựng đứng cái miệng của nàng Mona Lisa …thì sẽ thấy là …hình 1 tấm lưng trần của 1 người đàn ông có sống lưng thật là….đàn ông ”
Rất độc đáo và thú vị … Phay Van và Hà Linh , 2 em thử …xoay đứng cái miệng trong bức tranh xem nào….
Cô Gs Triết còn cho 1 homework tìm từ liên quan đến nụ cười …! Với cảm trạng đang vui vui …vì comments của 2 em….mà ngoài trời thì lại đang mưa rả rích …cộng với cửa hàng đang vắng khách…..vậy thì chị và 2 em vui chơi … exercices đầu óc với homework này của Cô nha …
nào …Let’s begin…:
* Cười bí hiểm , Cười bí ẩn , Cười rạng rỡ , Cười khoan khoái , Cười hạnh phúc , Cười lịch sự , Cười thanh thản , Cười thân thiện , Cười chào đón , Cười thành tâm , Cười đồng thuận , Cười đồng ý , Cười dịu dàng , Cười làm dáng , Cười vui vẻ , Cười xiêu lòng , Cười trấn an , Cười tự tin , Cười xã giao , Cười chào hàng , Cười tiếp thị , Cười rụt rè , Cười dễ dãi , Cười dễ chịu , Cười hòa đồng , Cười đơn giản , Cười ranh mãnh , Cười nhếch mép , Cười khó chịu , Cười khêu gợi , Cười nhếch mép , Cười đơn giản , Cười lôi kéo , Cười phòng thủ , Cười tự vệ , Cười táo bạo , Cười gượng ép , Cười gượng gạo , Cười e lệ , Cười e thẹn , Cười e ấp , Cười thẹn thùng , Cười mím chi , Cười xấu hổ , Cười ngao ngán , Cười ỉu xìu , Cười chán chường , Cười hăm dọa , Cười chế nhạo , Cười nheo mắt , Cười nắc nẻ , Cười như pháo , Cười cộc lốc , Cười ằng ặc , Cười sằng sặc , Cười se sẽ , Cười ùng ục , Cười sùng sục , Cười hề hề , Cười hềnh hệch , Cười hể hả , Cười hi hi , Cười hí hí , Cười hô hố , Cười ha ha , Cười hả hả , Cười the thé , Cười khề khà , Cười khanh khách , Cười giòn tan , Cười giòn giã , Cười ngã ngớn , Cười ngạo nghễ , Cười khinh khỉnh , Cười nữa miệng , Cười ngoác mồm , Cười cay độc , Cười chua chát , Cười ngất ngư , Cười ngặt nghẽo , Cười híp mắt , Cười lộn ruột , Cười xí xóa , Cười cầu tài , Cười chúm chím , Cười thấm thía , Cười ngao ngán , Cười ngán ngẫm , Cười nhạo báng , Cười báng bổ , Cười nghiêm túc , Cười thoáng qua , Cười trong trẻo , Cười trong sáng , Cười tâng bốc , Cười động viên , Cười đốc thúc , Cười thích chí , Cười thích thú , Cười mãn nguyện , Cười tao nhã , Cười hòa nhã , Cười nhu mì , Cười hài lòng , Cười tâm đắc , Cười thỏa chí , Cười thỏa thuê , Cười khoái trá , Cười xuê xoa , Cười xuề xòa , Cười xí xóa , Cười rổn rảng , Cười hào sảng , Cười lanh lãnh , Cười rạng vỡ , Cười thoải mái , Cười lăn quay , Cười chí chóe , Cười thánh thót , Cười lãnh lót , Cười bể bụng , Cười tức ruột , Cười xỏ lá , Cười vãi đái , Cười bò lăn , Cười động cỡn , Cười nụ , Cười mép , Cười mũi , Cười ruồi , Cười dê , Cười rè , Cười ré , Cười rộ , Cười vang , Cười khà , Cười ngất , Cười góp , Cười trừ , Cười gằn , Cười mỉa , Cười tình , Cười nhạt , Cười khan , Cười khì , Cười khẩy , Cười xòa , Cười duyên , Cười gượng , Cười vụng , Cười thầm , Cười nhây , Cười tan nát cõi lòng , Cười như đười ươi , Cười như hoa hàm tiếu , Cười nghiêng nước nghiêng thành , Cười ra nước mắt , Cười đổ quán xiêu đình , Cười tít cung thang , cười hở mười cái răng……..
* Cười là một trong những hình thức diễn đạt cảm xúc tinh tế tuyệt vời của con người ….
Uy Viễn Tướng Quân , Thi Sĩ Nguyễn Công Trứ , có câu :
” Thoạt sinh ra thì đà khóc chóe
Trần có vui sao chẳng cười khì…..”
Vậy hãy cười lên bạn nhé…nhưng nhớ phải đúng trạng huống của nụ cười bạn nhé !
@ Chị Nha Trang kính mến,
Ngoài Bắc còn có từ” cười đểu” chị à. Trong quê em thì mẹ em hay nói cháu em ” cười lỏn lẻn”…
@ Phay Van & Hà Linh mến ,
và …” cười ỏn ẻn ” !
Ôi trời, dài thật dài nên mới đọc lướt được truyện đầu tiên. Thèm cái tình thầy trò trân trọng nhau như vậy quá!
Chào “bác” PV, 😀 , Cám ơn “bác” PV vẫn nhớ câu chuyện ông thầy dạy triết của “bác” hth, ihiihi…
Thực ra mình muốn nói đến tình thầy trò nói chung, sự trân trọng lẫn nhau bây giờ ít quá. Thầy dạy triết mà mình nhắc tới là một trung tá Hải quân và tới giờ vẫn tiếc vì do chương trình học nên không có nhiều dịp được ông truyền đạt những kiến thức thực sự hữu ích. Do yêu cầu nên ông phải dạy bọn mình nhiều thứ…. vô bổ!!!
Nàng Phay, chị Nha Trang..
HL trình diện, đọc sau nhé!
Mới đi xa về đang nhớ ” mây vờn đỉnh núi” xứ đó núi, mưa âm u, nhìn như đang ở ” thiên đường mây mù…”….
Thong thả , cứ nghĩ ngơi cho khỏe đã Hà Linh !
Hèn gì …khách vào nhà chơi nườm nượp …mà chủ nhà thì lại ” ngoài vùng phủ sóng ” !
Đi tầm sư học…Thiền …hay sao , mà ” mây vờn đỉnh núi ” và ” thiên đường mây mù ”
giống Trúc Lâm Thiền Tự vậy em ?!
@ Chị Nha Trang, em đi về vùng núi, và thật sự theo em vẻ đẹp của Nhật bản là vẻ đẹp núi non..Em đi vào ngày mưa, mây vờn đỉnh núi chị à, và em nhớ Dương Thu Hương có tác phẩm” Những thiên đường mù…” …
Hà Linh yêu mến ,
Chị xem bài rồi , chị công nhận góc nhìn tinh tế đầy chiều sâu mỹ cảm trong em…
Rất vui và mừng…em càng lúc càng chứng tỏ bản lĩnh và chiều sâu nội tâm phong phú của mình .
Ha Linh , My Congratulations !
@ Chị Nha Trang kính mến,
Chào buổi sáng chị nhé, hôm nay bên chị thế nào ạ?
Bên em thì ” trời còn làm mưa, mưa rơi miên man…”
Em vẫn còn nhiều hình ảnh lắm, sẽ upload lên dần dần…
Em phát hiện ra sở thích chụp hình và em rất vui khi em chụp hình lên được chị và mọi người tán thưởng!
Ngày thật trong chị nhé!
@ Hà Linh yêu mến ,
Cả ngày vui chứ em ? Ôi chao , nơi chị ở hiện cứ ” mưa chi mà …mưa mãi , mưa chi mà… mưa hoài…” Hà Linh ơi !
Cho chị chia vui với em về phát hiện sở thích chụp hình của em nha ….vì nhờ vậy , chị và những bạn khách của em được…thưởng thức du lịch tại chỗ qua ngôi nhà rất đáng yêu của em…
Cho chị khen em thật lòng 1 câu : ” Em là người đi du lịch rất ư là VĂN HÓA ”
Em tuyệt lắm Hà Linh …!
@ Nàng Phay: HL yêu vùng Tây Nguyên và cũng hay đi về vùng núi non của NHật, thật khó phân định cảm giác: Nếu là tình yêu thiên nhiên thì nơi nào cũng vậy, nhưng về cảm xúc thì HL nghĩ là có cái khác, Tây Nguyên là cảm giác hoang dại và gần như bản năng tự đấu tranh sống còn…vì thế đứng trước những núi rừng đó được cảm nhận vè sức mạnh nội tại..
Trước núi non của Nhật bản ngoài kỹ vĩ của tự nhiên, còn cảm nhận được tình yêu, sự nâng niu của con người dành cho thiên nhiên đó..có cái gì đó ấm lòng…
và khi đứng trước điệp trùng núi non xanh tươi đó thì nghĩ thương hơn Tây Nguyên của mình nàng Phay à.
Nha Trang mến,
Đâu có gì mà phải “ngượng chín cả người”, Nha Trang ơi! Ai mà chẳng biết có hai thứ nhan sắc: sắc đẹp bên ngoài và sắc đẹp tiềm ẩn bên trong. Cái đẹp bên ngoài thì đến một lúc nào đó cũng sẽ phôi pha. Còn cái đẹp của tâm hồn mới chính là cái đẹp vững bền…
Tuy rời xa Nha Trang, nhưng mình hy vọng bạn sẽ có dịp trở lại nơi chốn đó một ngày không xa, bạn nhé!
Mai mến ,
Cảm ơn Mai , người bạn mới quen nhưng thật đầy ý nhị , dù chỉ là vài dòng hồi đáp …
Mong Mai ghé nhà Phay Van chơi thường xuyên , Mai nhé…
À Mai ơi …! Chị Cam Li có một sáng tác , mình nghe nói chưa kịp ra mắt độc giả…thì bị biến cố 30/4-1975 …làm ” khựng lại ” …!
Mình nghĩ , chắc Mai biết nhiều về chị Cam Li …, Hãy chia sẻ những thông tin về sáng tác bị ” khựng ” này của chị ấy , những gì mà Mai có thể chia sẻ…, được chứ Mai ?
Mến ,
Cái này nếu gọi là truyện ngắn e hơi cảm tình với tác giả, đọc xong thấy có vẻ như là hồi kí hay … tự sự chi đó thì đúng hơn Phay Van@ à ? Hay là ta chưa đọc được nhỉ , vậy anh phải đọc thêm ;ần nữa coi sao nha Phay Van@
@ Phay Van :
Sao vắng nhà …lâu thế em !
What’s the trouble with you ?
Bởi sự lôi cuốn của cốt truyện mà chị đọc một mạch hết hơn một tiếng đồng hồ mới xong em ạ. Họ viết thật là hay, những câu chuyện đời thường mà không đời thường chút nào phải không em?
Nha Trang và Phay Van mến,
Mai phải cám ơn các bạn thật nhiều. Vì tuy là khách mới nhưng Mai đã được các bạn đón tiếp rất nồng hậu. Mai thật là cảm động. Mai sẽ ghé trang nhà Phay Van chơi thường xuyên.
Sáng tác của chị Cam Li chưa kịp ra mắt độc giả vì biến cố tháng tư năm 1975 là truyện dài “Còn dấu chân người”. Các bạn có thể vào link này để xem truyện:
http://tuoihoa.hatnang.com/node/1268
Hơn 30 năm sau, chị đã viết đoạn cuối cho truyện này, đó là “Bước chân trở lại”, mời bạn vào xem:
http://tuoihoa.hatnang.com/node/1448
@ Trà Hâm Lại:
Hồi ký rất khác với truyện, bạn ạ! Viết hồi ký là phải viết đúng sự thật 100%, không thêm bớt, không tô màu hoặc đánh bóng. Còn với truyện, tác giả có thể thêm thắt tình tiết cho câu chuyện thêm lôi cuốn, hấp dẫn, tha hồ cho nhân vật sống, chết, hạnh phúc hay đau khổ. Bởi thế cho nên có người nói rằng: “Nhà văn là ông vua có quyền tối thượng”.
Hy vọng giải thích này làm bạn hài lòng.
Có những câu chuyện kể về một cuộc đời ( thực ) của một ai đó mang tính … giáo dục thì gọi là gì , bác Mai@ ?
Xin cảm ơn về bài học ngắn của bác trên đây.
Lâu rồi mới vào lại.. mãi lo talk tren diễn đàn của pall talk quên béng mất còn một nơi này mình cũng hay vào đoc những bài văn âm’ áp tình ngừoi..cả nhà vẫn vui khỏe chứ ..chi Nha trang . cô chủ nhà Phay Van bây giờ mới phát hiện thêm những tài hoa năm xửa năm xưa ..quí hóa lắm..không biết nói gì hơn kính chúc mọi người luôn dồi dào sức khỏe . nhơ’ đừng quên bọn tàu khựa đang ngang nhiên ngược ngạo trên quê hương mình nhé.
Trần Long
@ Trần Long : Chào chú , lâu quá mới xuất hiện à nha …Chú và gia đình vẫn an bình vui khỏe chứ ?
Cho Nha Trang gởi lời chào và chúc sức khỏe đến thím ấy cùng các cháu nha …
Công nhận ngôi nhà của cô chủ thật ấm nồng Trần Long nhỉ ! Vậy Trần Long cũng nên sắp xếp thời gian ra vào trò chuyện cho thêm phần nồng ấm chứ….?
Dạo này có sáng tác nào mới không Trần Long ? gởi lên cho mọi người cùng thưởng thức nha…
Thân ái ,
@ Nha Trang ơi,
Sưu tầm của bạn về các loại nụ cười thật là đặc sắc. Chắc chắn bài làm của Nha Trang được điểm 10/10, phải không?
@ Mai ơi ,
Hồi đó Trang chỉ nghĩ ra được khoảng 80 cụm từ thôi Mai ơi … , và điểm là 15/20 – điểm số hồi ấy tính theo hệ 20 , Mai quên à ..? –
Sở dĩ mình luôn nhớ những bài tập dạng này vì có điểm rất thú vị , đó là :
* Người bạn luôn đạt điểm tuyệt đối 20/20 của tất cả các bài tập dạng tìm từ này , là cô bạn thân cùng lớp , Có Họ và Tên trùng ngẫu nhiên với cô Gs dạy Triết : Phạm Thị Thanh Mỹ !
* Riêng bài tập này , cô Gs chỉ cho bạn ấy 19/20 , với lời phê đầy tính giáo dục , thúc đẩy học sinh luôn tìm tòi khám phá :
” Cô nợ lại em 1 điểm , hy vọng em sẽ tìm được cụm từ diễn đạt được ý nghĩa nụ cười của Mona Lisa – La Joconde …Được chứ em ? ”
Không biết bây giờ bạn ấy đã tìm ra chưa….
Ôi…một khung trời đầy dấu yêu kỷ niệm ….Mai ơi ……
Nha Trang ơi,
Cám ơn bạn đã nhắc nhớ. Đúng rồi, hệ thống thang điểm ngày xưa của tiểu học là 10/10, còn của trung học là 20/20. Trang có một trí nhớ thật tốt!
Cô giáo Triết của bạn thật tuyệt vời với những bài tập linh động. Cô giáo dạy giỏi nên làm cho học trò rất thích và thấy hứng thú trong việc học, phải không? Hy vọng một ngày không xa Trang sẽ gặp lại có bạn thân Thanh Mỹ và hỏi xem Thanh Mỹ đã tìm ra ý nghĩa nụ cười của Mona Lisa – La Joconde chưa? Chỉ cần gặp lại nhau cũng là rất vui rồi phải không, Nha Trang?
@ Trà Hâm Lại:
Nếu câu chuyện đó được kể trung thực 100% thì đó là hồi ký, dù mang tính giáo dục hay không, bác Trà ạ!